Kim Dung (Jin Yong) sinh ngày 6 tháng 2 năm 1924) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo, ra đời năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này.
Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.
Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2), là tiểu hành tinh được tìm ra trùng với ngày sinh của ông (6 tháng 2). Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc.
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố là Tra Thận Hành, nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút; Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh sáu đứa con, Kim Dung là con thứ hai.
Thuở nhỏ Kim Dung thông minh, lanh lợi, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể truyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là "Tra thị tàng thư" nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.
Sáu tuổi, ông vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.
Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.
Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.
Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đă cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.
Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.
Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi.
Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.
Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.
Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.
Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp.
Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn.
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.
Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.
Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.
Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
Kim Dung ở Việt Nam
Dịch giả đưa Kim Dung lên cơn sốt tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Thực ra trước đó, đã có một số bản dịch như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ) của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, truyện kiếm hiệp vẫn được xem là thứ giải trí rẻ tiền. Bản dịch Cô gái Đồ Long mới tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung trong các tầng lớp độc giả từ bình dân đến trí thức. Một số nhà văn nhà báo lấy bút danh theo tên nhân vật trong truyện Kim Dung như Hư Trúc, Kiều Phong... Nhiều nhà văn nổi tiếng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý, công phu nhất là Đỗ Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung.
Dịch giả truyện Kim Dung tài hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký... câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động.
Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "văn hóa đồi trụy phản động". Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại.
Sau 1975, nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên viết khảo luận về Kim Dung, các bài của ông đăng trên tập san Kiến thức ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi (4 quyển).
Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).
Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như các bản dịch Thiên long bát bộ và Ỷ thiên Đồ long ký (lưu truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung.
Vinh dự
Tượng Kim Dung tại đảo Đào Hoa, Phổ Đà, Chu San, Chiết GiangNgoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.
Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.
Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge
Tác phẩm
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.Tên truyện | Tên nguyên bản |
Tên khác | Năm sáng tác |
Ghi chú | |
---|---|---|---|---|---|
1 | Thư kiếm ân cừu lục | 書劍恩仇錄 | 1955 | ||
2 | Bích huyết kiếm | 碧血劍 | 1956 | ||
3 | Xạ điêu anh hùng truyện | 射雕英雄傳 | Anh hùng xạ điêu | 1957 | Xạ điêu tam bộ khúc I |
4 | Thần điêu hiệp lữ | 神雕俠侶 | Thần điêu đại hiệp | 1959 | Xạ điêu tam bộ khúc II |
5 | Tuyết sơn phi hồ | 雪山飛狐 | 1959 | ||
6 | Phi hồ ngoại truyện | 飛狐外傳 | Lãnh nguyệt bảo đao | 1960 | Tiền Tuyết sơn phi hồ |
7 | Bạch mã khiếu tây phong | 白馬嘯西風 | 1961 | ||
8 | Uyên Ương đao | 鴛鴦刀 | 1961 | ||
9 | Ỷ thiên Đồ long ký | 倚天屠龍記 | Cô gái Đồ Long | 1961 | Xạ điêu tam bộ khúc III |
10 | Liên thành quyết | 連城訣 | 1963 | ||
11 | Thiên long bát bộ | 天龍八部 | Lục mạch thần kiếm | 1963 | Tiền Xạ điêu tam bộ khúc |
12 | Hiệp khách hành | 俠客行 | 1965 | ||
13 | Tiếu ngạo giang hồ | 笑傲江湖 | 1967 | ||
14 | Lộc Đỉnh ký | 鹿鼎記 | Lộc Đỉnh Công | 1969-1972 | |
15 | Việt nữ kiếm | 越女劍 | 1970, truyện ngắn |
Chùm truyện có thể nói là nổi tiếng nhất, và cũng có nhiều chi tiết liên kết chặt nhất, là Xạ điêu tam bộ khúc, gồm ba tác phẩm Xạ điêu anh hùng truyện (cuối đời Tống), Thần điêu hiệp lữ (thời Mông Cổ đánh Tống), Ỷ thiên Đồ long ký (thời nhà Minh nổi lên đánh Mông Cổ).
Thiên Long bát bộ (thời Tống) lấy bối cảnh trước Xạ điêu anh hùng truyện, nhưng nội dung câu chuyện vốn là độc lập. Khi Kim Dung sửa chữa Xạ điêu anh hùng truyện đã sửa lại vài chi tiết để bắc cầu với Thiên Long bát bộ.
Vài nhân vật của Bích huyết kiếm (thời Minh mạt, Mãn Châu vào đánh) xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký (đời Khang Hy).
Vài nhân vật trong Thư kiếm ân cừu lục xuất hiện trong Phi hồ ngoại truyện, tác phẩm này lại kể lai lịch, hành trạng của Hồ Phỉ và một số nhân vật khác của Tuyết sơn phi hồ (các truyện này lấy bối cảnh đời Càn Long).
Các truyện khác của Kim Dung không liên quan với nhau và cũng không có bối cảnh lịch sử cụ thể, trừ Việt nữ kiếm xảy ra thời Xuân Thu.
Đề tài trong tác phẩm Kim Dung
Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn Châu. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài ba, những dũng sĩ kiêu dũng trên đại mạc đứng lên lập nên đại nghiệp, uy hiếp nhà Tống lụn bại. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong vì người Hán ngăn cản vua Liêu tiến quân.Các tác phẩm của Kim Dung có thể coi là cuốn từ điển nhỏ về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, bao gồm các lĩnh vực y thuật dân tộc Trung Quốc, châm cứu, võ thuật, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo, các triết học của đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão, và lịch sử phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật lịch sử hòa trộn vào các nhân vật trong truyện.
Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và tán thành các giá trị truyền thống Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, và nhất là giữa sư phụ và đồ đệ, giữa các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống như là danh dự và thể diện.
Cuối cùng ông phá vỡ các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. là một nhân vật chính nhưng Vi Tiểu Bảo không theo mô thức của các nhân vật chính mà Kim Dung đã dàn dựng, không phải là một biểu tượng của một anh hùng hảo hán, chính tà bất phân, không theo một tiêu chuẩn đạo đức nhất định, nhưng là một kẻ sống rất "nghĩa khí" và rất hết lòng vì bạn bè.
Phê bình
Các tác phẩm của Kim Dung đã nhận được nhiều phê bình từ độc giả và các nhà phê bình văn học. Nghê Khuông, một nhà văn nổi tiếng và là bạn của Kim Dung đã viết rất nhiều bài viết phân tích các nhân vật và thế giới võ thuật trong các tác phẩm của ông.Tuy nhiên nhiều tác phẩm của Kim Dung đã bị cấm ở nhiều nơi ngoài Hồng Kông vì những lí do chính trị. Nhiều tác phẩm bị cấm ở Trung Hoa đại lục vì bị cho là chế nhạo Mao Trạch Đông và Cải cách văn hóa. Chính quyền Đài Loan cũng cấm vì cho rằng các tác phẩm này ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện giờ các tác phẩm của Kim Dung không bị cấm nữa. Một số chính trị gia như Đặng Tiểu Bình còn là người hâm mộ các tác phẩm của ông.
Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên Long Bát Bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc.
Tác phẩm dựa Kim Dung
Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung xem tại đây:Tác phẩm |
Người dịch |
Người viết | |
---|---|---|---|
1 | Bẻ kiếm bên trời | Hàn Giang Nhạn | |
2 | Cự Linh Thần Chưởng | Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh | |
3 | Độc Cô Quái Khách | Hàn Giang Nhạn | |
4 | Đơn kiếm diệt quần ma | Tiền Phong Từ Khánh Phụng | |
5 | Hắc Thánh Thần Tiêu | Thương Lan | |
6 | Hậu Anh Hùng Xạ Điêu | ||
7 | Hậu Cô Gái Đồ Long Ỷ thiên Đồ long Ký hậu truyện |
||
8 | Huyết Mỹ Nhân | ||
9 | Loạn Võ Công Ký | Phạm Thế Tài | |
10 | Ma Nữ Đa Tình | ||
11 | Song Nữ Hiệp Hồng Y | Tiền Phong Từ Khánh Phụng | |
12 | Thái A Kiếm | Tiền Phong Từ Khánh Phụng | |
13 | Thạch Phá Thiên Hậu Hiệp khách hành |
||
14 | Tiếng Đàn Ma | ||
15 | Tiếu Ngạo Giang Hồ Hậu Ký | TMP | |
16 | Tiểu Tà Thần | Tiền Phong Từ Khánh Phụng | |
17 | Tục Thái A Kiếm | ||
18 | Tục Tiểu Tà Thần | ||
19 | Võ Lâm Ngũ Bá Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện |
Nhân vật
Truyện Kim Dung có rất nhiều nhân vật đều được khắc họa theo lối ấn tượng, mỗi người có một tính cách riêng biệt, tính cách ấy nhiều khi được thể hiện lên tên hay ngoại hiệu của nhân vật, ví dụ:- Điền Bá Quang có ngoại hiệu là Giang dương đại đạo Thái hoa dâm tặc Vạn lý độc hành Khoái đao, mười hai chữ ấy mô tả đặc điểm của Điền Bá Quang và tài khinh công của y, khoái đao là món vũ khí y thường xài.
- Hoàng Dược Sư ngoại hiệu Đông Tà, thì y có cái vẻ tà quái khác thường, Tương tự với Âu Dương Phong ngoại hiệu là Tây Độc, là một tay độc địa chuyên sử dụng độc dược hại người.
Về bản chất, các nhân vật (kể cả các bang hội) chia rõ ra hai phe chính - tà trên danh nghĩa. Nhưng sự thật ai cũng thấy là những người thuộc về phe tà không hẳn là một phường gian ác, mà những kẻ phe chính cũng không nhuần là nhân nghĩa. Có những nhân vật ra mặt đức độ rất lâu, đến một lúc nào đó lại hiện rõ sự gian ác, tráo trở làm người đọc không khỏi bất ngờ.
Nhân vật nam
Các nhân vật nam chính thường được mô tả từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất. Trong truyện Kim Dung, những người đạt tới cảnh giới cao nhất của võ học đều là nam giới, như Trương Vô Kỵ, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Độc Cô Cầu Bại...Những nhân vật nam cũng là thường đầu mối chính trong các xung đột lớn nhỏ, vì ngoài số ít những kẻ chất phác, Kim Dung thường cho những nhân vật nam tính ham công danh lợi lộc, dẫn đến tàn sát lẫn nhau. Nhân vật Nam chính trong các truyện :- Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục
- Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm
- Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu
- Dương Quá: Thần điêu đại hiệp
- Hồ Nhất Đao: Tuyết sơn phi hồ
- Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện
- Hồ Phỉ: Tuyết sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện
- Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Địch Vân: Liên thành quyết
- Tiêu Phong: Thiên long bát bộ
- Đoàn Dự: Thiên long bát bộ
- Hư Trúc: Thiên long bát bộ
- Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành
- Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ
- Nhạc Bất Quần: Tiếu ngạo giang hồ
- Tả Lãnh Thiền: Tiếu ngạo giang hồ
- Nhậm Ngã Hành: Tiếu ngạo giang hồ
- Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký.Riêng nhân vật này võ công thấp kém,xuất thân hèn kém nhưng trời sinh ra đã gian manh,xảo trá. Nhờ vậy nên lập được nhiều kì công trong cuộc đời mình
Nhân vật nữ
Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh họa cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn chồng mình là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân và dân tộc của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. Ân Tố Tố, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:
- Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục
- Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục
- Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục
- Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm
- A Cửu (Trường Bình công chúa): Bích huyết kiếm
- Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu
- Tiểu Long Nữ: Thần điêu đại hiệp
- Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện
- Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện
- Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ
- Ân Tố Tố: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Thích Phương: Liên thành Quyết
- Thủy Sinh: Liên thành Quyết
- A Châu: Thiên long bát bộ
- A Tử: Thiên long bát bộ
- Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ
- Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ
- Chung Linh: Thiên long bát bộ
- Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao
- Lý Văn Tú: Bạch mã khiếu tây phong
- Đinh Đang: Hiệp khách hành
- A Tú: Hiệp khách hành
- A Thanh: Việt Nữ kiếm
- Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ
- Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ
- Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ
- Song Nhi: Lộc Đỉnh ký
- Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký
- Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký
- Phương Di: Lộc Đỉnh ký
- Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký
- Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký
- A Kha: Lộc Đỉnh ký
Các nhân vật nữ mà Kim Dung xem là người vợ lý tưởng bao gồm: Nhậm Doanh Doanh, Triệu Mẫn, A Châu, Tăng Nhu, Chu Chỉ Nhược.
Các nhân vật nữ mà Kim Dung nguyện suốt đời yêu thương và bảo vệ là: Quách Tương, Tiểu Chiêu, Nghi Lâm, Song Nhi, A Bích, A Cửu, Trình Anh, Công Tôn Lục Ngạc, Cam Bảo Bảo
Nhân vật lịch sử phỏng theo
Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử và đưa vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử chính thức của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy... Các tiểu thuyết của Kim Dung có yếu tố lịch sử bao gồm: Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm, Thiên Long bát bộ, Xạ Điêu tam bộ khúc, Lộc Đỉnh ký và Việt nữ kiếm- Hoàn Nhan A Cốt Đả: Thiên long bát bộ
- Gia Luật Hồng Cơ: Thiên long bát bộ
- Đế quốc Mông
Cổ
- Thành Cát Tư Hãn, Truật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài, Đà Lôi: Anh hùng xạ điêu
- Mông Kha, Hốt Tất Liệt: Thần Điêu hiệp lữ
- Gia Luật Sở Tài: Thần Điêu hiệp lữ
- Toàn
Chân giáo, xuất hiện nhiều trong Xạ Điêu tam bộ khúc, gồm:
- Vương Trùng Dương người sáng lập ra giáo phái Toàn Chân.
- Mã Ngọc, Khâu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị: Toàn Chân thất tử.
- Trương Tam Phong: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Trần Hữu Lượng: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Nhà Thanh
- Thuận Trị, Khang Hi: Lộc Đỉnh ký
- Càn Long: Thư kiếm ân cừu lục
- Sùng Trinh, Ngô Tam Quế,Trường Bình Công Chúa: Bích huyết kiếm
- Thi Lang, Trịnh Khắc Sảng,Trần Vĩnh Hoa, Phùng Tích Phạm,Lý Tự Thành và Trần Viên Viên: Lộc Đỉnh ký
- Vương quốc
Đại Lý
- Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự (hay còn gọi là Đoàn Chính Nghiêm): Thiên long bát bộ
- Đoàn Trí Hưng: Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp
Chiêu thức võ thuật
Chiêu thức cũng là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có những chiêu thức tuy không nói ra nhưng hàm chứa một triết lý sống, ví dụ:- Chiêu Độc Cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ. Với tiêu chí vô chiêu thắng hữu chiêu, chỉ có tiến không có lùi. Nó cũng như bản tính của Lệnh Hồ Xung tính tình phóng đãng (vô chiêu) không muốn đi theo tập tục lễ giáo (hữu chiêu), làm việc gì cũng theo ý mình không cần phải e ngại (chỉ có tiến không có thoái).
- Chiêu Hàng long thập bát chưởng (Giáng long thập bát chưởng) của Cái Bang, là một môn võ công thuần dương, tấn công trực diện, nên chỉ có những người tâm địa ngay thẳng như Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh... là đạt tới đỉnh cao của nó.
- Tiểu Vô Tương công: Võ công của phái Tiêu Dao thâu tóm toàn bộ võ công trong thiên hạ.
- Kim xà bí kíp: là võ công do Hạ Tuyết Nghi-Kim Xà Lang Quân sáng tạo ra và Viên Thừa Chí tình cờ học được.
- Hàng long thập bát chưởng là chưởng pháp lừng danh, chỉ truyền cho đệ tử Cái Bang từ 8 túi trở lên và lập nhiều công lớn.
- Dịch cân kinh (Dịch cân Tẩy tủy kinh, Đạt Ma Dịch cân kinh) là một phương pháp rèn luyện nội công của phái Thiếu Lâm.
- Thái Cực Quyền của Trương Tam Phong chưởng môn phái Võ Đang sáng tác, là một môn võ công cao thâm dựa trên nguyên tắc "Lấy nhu thắng cương, lấy tĩnh chế động, lấy chậm đánh nhanh". Một trong những đặc điểm nổi bật của môn võ này là mượn sức của đối thủ để đánh ngược lại đối thủ, khiến đối phương tự mình tự đoạn.
- Thái Cực Kiếm: cũng do Trương Tam Phong sáng tạo ra. Lúc thi triển, Thái Cực Kiếm trông đẹp mắt và biến ảo khôn lường. Khi luyện đến đỉnh cao, chỉ cần dùng kiếm gỗ cũng đủ để đánh thắng kiếm thật.
- Ảm nhiên tiêu hồn chưởng là môn võ công quái dị của Dương Quá. Môn võ này chỉ phát huy tối đa công lực khi người thi triển đang ở trong tâm trạng u sầu cực độ, nếu không sẽ mất tác dụng.
- Càn khôn đại nã di, bí kíp nội công thượng thặng của Minh Giáo. Có thể dịch chuyển đòn đánh của đối thủ sang một người khác, hoặc phản ngược lại chính đối thủ.
- Quỳ Hoa bảo điển - Tịch tà kiếm phổ, là 1 loại võ công nhưng bị biến đổi thành 2 cách luyện, cả 2 cách luyện đều đòi hỏi người luyện phải tự cung.
- Đả cẩu bổng pháp: môn võ công "gậy đánh chó", chỉ dành cho bang chủ Cái Bang.
- Song thủ hỗ bác: chiêu thức quái đản của Chu Bá Thông, là thuật phân tâm sao cho 2 bàn tay có thể ra 2 chiêu khác nhau cùng 1 lúc. Chỉ dành cho những người có đầu óc hoàn toàn vô tư, trong sáng. Ngoài Chu Bá Thông là người sáng tạo ra, chỉ có Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ là có duyên học được môn võ công này.
- Không Minh quyền: cũng là một môn võ công siêu hạng của Chu Bá Thông.
- Độc cô cửu kiếm: môn võ của Độc Cô Cầu Bại, được Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung.
- Hấp tinh đại pháp, môn võ bị căm ghét nhất võ lâm, vì hút nội lực kẻ khác.
- Lục mạch thần kiếm: Kiếm pháp thượng thừa của nước Đại Lý.
- Lăng ba vi bộ: Khinh công thượng thừa của phái Tiêu Dao, môn võ mà Đoàn Dự vô tình học được.
- Đàn chỉ thần công: Môn võ này dùng sức mạnh nội công để bắn đi hòn đá nhỏ bằng ngón tay. Đây là tuyệt học đắc ý của Hoàng Dược Sư.
- Lạc Anh thần kiếm chưởng: Cũng là một chiêu đắc ý của Hoàng Dược Sư.
- Cáp mô công: môn võ của Âu Dương Phong (cáp mô nghĩa là con cóc), nhìn không đẹp mắt nhưng uy lực rất ghê gớm.
- Cửu âm chân kinh: Được viết bởi Hoàng Thường, đây được xem là bí kíp võ công tối thượng trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Theo lời của Vương Trùng Dương, các môn võ công ghi trong bí kíp này "cao siêu không thể tưởng, chỉ cần xuất chiêu là có thể đưa đối thủ vào chỗ chết".
- Cửu dương thần công: Một bí kíp võ công thượng thừa có khả năng bảo vệ cơ thể, chống lại độc tố xâm nhập.
- Nhất dương chỉ: Môn võ chỉ truyền giữa các đời vua Đại Lý
- Bắc Minh thần công: Môn võ Đoàn Dự học được, tương tự với Hấp Tinh đại pháp.
- Tiên Thiên công: Môn võ tuyệt học của phái Toàn Chân, nhờ nó mà Vương Trùng Dương mới trở thành Đệ nhất thiên hạ trong Hoa Sơn luận kiếm lần thứ nhất. Sau lần này, vì lo ngại sau khi mình mất đi sẽ không còn ai trị được Tây Độc Âu Dương Phong, nên Vương Trùng Dương đến Đại Lý truyền lại cho Đoàn Trí Hưng, đồng thời học lấy Nhất Dương Chỉ công. Chỉ khi có Tiên Thiên công và Nhất Dương Chỉ Công mới có thể đã thông được kỳ kinh bát mạch.
- Ngọc Nữ tâm kinh: Môn võ của phái Cổ Mộ, dùng để khắc chế võ công của Toàn Chân giáo. Tuy nhiên, nếu sử dụng Ngọc Nữ Kiếm Pháp cùng liên thủ với Toàn Chân Kiếm Pháp sẽ tạo nên Song Kiếm Hợp Bích có uy lực kinh người (Dương Quá và Tiểu Long Nữ tình cờ phát hiện ra điều này). Sở dĩ có điều lạ lùng như vậy bởi vì Lâm Triều Anh (tổ sư sáng lập phái Cổ Mộ) không thể đến với người yêu là Vương Trùng Dương (tổ sư Toàn Chân giáo) nên đã chán ghét, quyết tạo ra võ công để chế ngự võ công của Toàn Chân giáo. Tuy nhiên, trong lòng bà vẫn luôn nhớ đến tình xưa nên đã khéo léo sáng tạo ra Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ vừa để khắc chế vừa để hỗ trợ võ công của Toàn Chân giáo.
- Thất tinh Bắc Đẩu trận: Trận pháp dựa theo vị trí của 7 vì sao do Thanh Hư Chân Nhân truyền lại cho Vương Trùng Dương và được thi triển bởi 7 đệ tử.
- Sư tử hống: Tuyệt chiêu của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, khiến đối thủ trở nên điên loạn hoặc tử thương.
- Tử hà thần công: Môn võ của Nhạc Bất Quần trưởng môn phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ)
- Thiết sa chưởng: Tuyệt chiêu của Cừu Thiên Nhận (Anh hùng xạ điêu)
- Cửu Âm bạch cốt trảo: Môn võ Mai Siêu Phong học được từ Cửu Âm chân kinh.
- Thần chiếu kinh thần chưởng là môn công phu rất lợi hại: chỉ cần chụp vào ai là người đó chết, trừ phi mặc chiếc Ô Tằm Giáp.
- Kim Cuơng phục ma khuyên: là trận pháp của ba nhà sư chữ Độ phái Thiếu Lâm, sau bị Truơng Vô Kỵ phá giải.
- Kim Cang Chưởng: Võ công mang tính Nội công của Tây Vực.
- Thiên Sơn Chiết Mai Thủ: Tuyệt học của phái Tiêu Dao.
Môn phái, bang hội
Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:- Thiếu Lâm
- Cái Bang
- Võ Đang
- Côn Luân
- Nga Mi
- Không Động
- Minh Giáo
- Cổ Mộ
- Thanh Thành
- Điểm Thương
- Ngũ
Nhạc kiếm phái bao gồm:
- Tung Sơn
- Thái Sơn
- Hoa Sơn
- Hành Sơn
- Hằng Sơn
- Đại Lý Đoàn Thị
- Toàn Chân giáo
Thời biểu
Tiếu ngạo giang hồ không nói rõ xảy ra vào thời gian nào; Kim Dung nói rằng ông cố tình bỏ ngỏ. Tuy vậy độc giả đã phát hiện ra rằng câu truyện có thể xảy ra vào thời Minh, bởi vì phái Võ Đang và Nga Mi (thành lập vào đầu triều Minh) xuất hiện nổi bật, và bởi vì người Mãn Châu không được đề cập. Trong vài bộ phim chuyển thể như Swordsman II với Lý Liên Kiệt đóng vai chính, câu truyện diễn ra vào thời vua Vạn Lịch, tức là cuối triều Minh, trước khi nhà Thanh xâm lấn.Năm | Tiểu thuyết |
---|---|
Thế kỉ 6 TCN | Việt nữ kiếm |
Thế kỉ 11 | Thiên long bát bộ |
Thế kỉ 13 | Anh hùng xạ
điêu Thần điêu đại hiệp |
Thế kỉ 14 | Ỷ thiên Đồ Long ký |
Thế kỉ 16 | Tiếu ngạo giang hồ
1 Hiệp khách hành |
Thế kỉ 17 | Bích huyết
kiếm Lộc Đỉnh ký |
Thế kỉ 18 | Thư kiếm ân
cừu lục Phi hồ ngoại truyện Tuyết sơn phi hồ |
Thế kỉ 19 | Liên thành quyết |
Phim ảnh
Phim truyền hình
- Anh hùng xạ điêu (phim 1983)
- Anh hùng xạ điêu (phim 1994)
- Anh hùng xạ điêu (phim 2003)
- Anh hùng xạ điêu (phim 2008)
- Bích huyết kiếm (phim 1985)
- Bích huyết kiếm (phim 2007)
- Lộc Đỉnh ký (phim 1984)
- Lộc Đỉnh ký (phim 2008)
- Thiên long bát bộ (phim truyền hình 1997)
- Thiên long bát bộ (phim truyền hình 2003)
- Thần điêu đại hiệp (phim 1983)
- Thần điêu đại hiệp (phim 1995)
- Thần điêu đại hiệp (phim 2006)
- Tiếu ngạo giang hồ (phim 1996)
- Tiếu ngạo giang hồ (phim 2001)
- Tiếu ngạo giang hồ (phim 2013)
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký (phim 1986)
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký (phim 2000)
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký (phim 2003)
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký (phim 2009)
Phim điện ảnh
- Tiếu ngạo giang hồ: Đông Phương Bất Bại
- Lộc Đỉnh ký
- Lộc Đỉnh ký: Thần Long giáo
( Theo Wikipedia)
--------------------------------------
Bài liên quan:
No comments:
Post a Comment