Trong Anh Hùng Xạ Điêu, đạo sỹ Khưu Xứ Cơ thuộc phái Toàn Chân trong khi đi cứu vợ của người bạn Quách Thiếu Thiên là Lý Thị bị tên quan Đoàn Thiên Đức bắt đi, đã chạm trán với Tiêu Mộc đại sư ở chùa Pháp Hoa. Tiêu Mộc không đánh lại Khưu Xử Cơ nên đã nhờ Giang Nam thất quái can thiệp. Họ đánh nhau đến khi tất cả đều bị thương và bất lực chứng kiến Đoàn Thiên Đức mang Lý Thị đi ngay trước mắt mình còn Tiêu Mộc vì cản Đoàn Thiên Đức mà vong mạng. Thất quái đã đánh cuộc với Khưu Xử Cơ: họ cam kết tìm được Lý Thị và dạy con của bà võ nghệ, còn Khưu Xứ Cơ tìm vợ con của người bằng hữu còn lại, anh em kết nghĩa của Quách Thiếu Thiên là Dương Thiết Tâm, dạy võ công cho hậu duệ của ông để hai bên đọ tài cao thấp. Thất quái tìm đến tận Mông Cổ, gặp được Quách Tĩnh là con của Quách Thiếu Thiên và Lý Thị.
Ngay đêm đầu tiên hẹn gặp chàng (lúc đó chỉ là đứa bé 6 tuổi), họ đã gặp lại Hắc Phong song sát đang lẩn tránh trên đại mạc. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Mai Siêu Phong bị Kha Trấn Ác đánh mù mắt và suýt bị tiêu diệt còn Trần Huyền Phong giết chết Trương A Sinh. Sau đó trong lúc không chú ý, Trần Huyền Phong đã bị Quách Tĩnh dùng cây trủy thủ mà Khưu Xử Cơ từng tặng cho Quách gia đâm chết.
Sau biến cố này, lục quái ở lại đại mạc với mẹ con Lý Thị và dạy võ công cho Quách Tĩnh, hy vọng chàng có thể đánh bại Dương Khang. Nhưng phương pháp của họ sai lầm còn Quách Tĩnh thì khờ khạo nên không đạt nhiều kết quả. Sau sáu người theo Quách Tĩnh về Trung Nguyên, lần lượt va chạm với Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong và Hoàng Dung, con gái của Hoàng Dược Sư. Quách Tĩnh và Hoàng Dung đem lòng yêu thương nhau nên sau này lục quái đã cố nén hận thù để hòa hảo với Hoàng Dược Sư và đến mộ Mai Siêu Phong bái tế.
Tuy nhiên, ngoài đời Khưu xứ cơ là nhân vật có thật. Ông là đạo sĩ thời kỳ giao thời giữa nhà Kim và nhà Nguyên, tự Thông Mật, đạo hiệu là Trường Xuân Tử và Trường Xuân chân nhân, quê ở Thê Hà thuộc Đăng Châu (nay là huyện Tê Hà, tỉnh Sơn Đông).
Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 19 tuổi xuất gia học đạo tại núi Côn Lôn (Ninh Hải). Năm sau, bái Vương Trùng Dương (tổ sư của Toàn Chân Đạo) làm thầy. Có lẽ ông là người nổi tiếng nhất trong Toàn Chân thất tử. Sau về núi Long Môn (phía đông nam của thị trấn Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây ngày nay) tu luyện 7 năm, rồi sáng lập Toàn Chân Long Môn phái. Năm Đại Định thứ 28 (tức năm 1188), vua Kim Thế Tông (Hoàn Nhan Ung) triệu vời ông đến Trung Đô (nay là Bắc Kinh), biệt đãi và trọng vọng.
Năm 1190, vua Kim Chương Tông e ngại Toàn Chân giáo làm mê hoặc dân chúng nên đã ra lệnh cấm. Khưu Xử Cơ quay trở về Sơn Đông.
Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn mời Trường Xuân tử đến gặp ông. Bức thư mời của Thành Cát Tư Hãn, tính theo lịch hiện nay thì viết ngày 15 tháng 5 năm 1219, hiện vẫn còn lưu giữ được và là một trong những di vật có giá trị lịch sử. Bức thư này cho thấy vị Khả Hãn Mông Cổ ghê gớm này lại là một môn đồ nhu mì của sự thông thái, cùng tính tình khiêm tốn và giản dị, gần như là rất nghiêm khắc trong sự tự rèn luyện, giác ngộ được nhiều triết lý về sự sống và quyền lực.
Sau chuyến đi Trường Xuân đã sống tại Bắc Kinh cho đến khi chết vào năm 1227. Ông bị bệnh mất, an táng ở Bạch Vân Quán (Bắc Kinh). Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) năm 1269 phong tặng ông hiệu Trường Xuân Diễn Đạo Chủ Giáo Chân Nhân.
Trường Xuân tuân theo lời thỉnh cầu này và rời Sơn Đông vào tháng 2 năm 1220 cùng 18 đệ tử để tới Bắc Kinh. Biết rằng Thành Cát Tư Hãn đã đi xa về phía tây trong các cuộc viễn chinh mới, nhà hiền triết này đã lưu lại tại đây trong mùa đông. Vào tháng 2 năm 1221 Trường Xuân lại lên đường, vượt qua miền đông Mông Cổ để đến doanh trại của người em Thành Cát Tư Hãn là Ujughen, gần hồ Bbr (hay Buyur), ở thượng lưu Kerulun-Amur. Từ đây ông đi về phía tây nam tới Kerulun, vượt qua khu vực Karakorum ở miền bắc khu vực trung tâm Mông Cổ, và sau đó vượt qua dãy núi Altay phần thuộc Trung Quốc ngày nay, có lẽ là gần khu vực Uliassutai. Sau khi đi ngang qua Altay ông đã đến Bishbalig, và đi dọc theo sườn phía bắc của dãy núi Thiên Sơn tới hồ Sairam, Almalig (hay Kuija), và thung lũng giàu có Ili.
Sau đó đoàn của ông đến sông Chui (thuộc Kyrgyzstan ngày nay) và vượt qua sông này tới Talas (thị trấn nhỏ ở tây bắc Kyrgyzstan) và khu vực Tashkent, và sau đó vượt qua sông Jaxartes (tức sông Syr Darya) tới Samarkand, tại đây ông dừng lại vài tháng. Cuối cùng, qua cổng sắt Termit, vượt qua sông Oxus (sông Amu Darya), và theo đường tới Balkh (một thị trấn nhỏ thuộc Afghanistan ngày nay) và miền bắc Afghanistan, Trường Xuân đã đến được doanh trại của Thành Cát Tư Hãn ở gần dãy núi HinduKush. Nguyên Thái Tổ hỏi ông về phép tu luyện trường sinh bất tử, khen ông là thần tiên, phong là Đại Tông Sư, toàn quyền chưởng quản Đạo giáo trong thiên hạ, nhờ đó mà Toàn Chân Đạo trở nên cực thịnh
Ngày 7 tháng 3 năm 1223, đoàn của ông quay trở lại phía đông. Hành trình trở về của ông chủ yếu là theo lộ trình cũ nhưng nhanh hơn, với một số sự lệch hướng, chẳng hạn đến thăm Kuku-khoto. Ông về tới Bắc Kinh vào cuối tháng giêng năm 1224. Từ các câu truyện kể về chuyến đi của ông (Trường Xuân Chân Nhân tây du ký, được học trò và bạn đồng hành của ông là Lý Chí Thường viết, chính vì điều này mà tác giả của Tây du ký đôi khi được coi là Trường Xuân, nhưng điều này là không chính xác. Tây du ký do Ngô Thừa Ân viết. Sự nhầm lẫn như vậy là do tên gọi tương tự nhau của hai tác phẩm này) người ta có thể thấy một số hình ảnh đẹp và đầy sức sống nhất được tạo ra bởi thiên nhiên và con người giữa Vạn lý trường thành và Kabul, giữa biển Aral và Hoàng Hải. Đáng chú ý là các phác thảo về người Mông Cổ và người dân ở Samarkand cũng như các vùng phụ cận; bản miêu tả sự màu mỡ, phì nhiêu và các sản phẩm của khu vực này, cũng như của khu vực thung lũng Ili, tại hay gần Almalig-Kulja; và sự miêu tả các dãy núi lớn, đỉnh núi và hẻm núi, chẳng hạn dãy núi Altay, Thiên Sơn, đỉnh Bogdo-ola (?), và cổng sắt Termit. Ngoài ra, ở đây cũng thấy có các chi tiết đáng chú ý về vùng đất dường như là thuộc thượng nguồn sông Enisei.
Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn một số đất đai thuộc hoàng gia trước đó đã được chuyển giao cho ông để xây dựng nơi tu hành cho Đạo giáo. Ông chủ trương tam giáo bình đẳng, tác phẩm có: Nhiếp Sinh Tiêu Tức Luận, Đại Đan Trực Chỉ, Bàn Khê Tập, Huyền Phong Khánh Hội Lục, Minh Đạo Tập.
Theo Wikipedia
No comments:
Post a Comment