Monday, September 29, 2025

Thiếu lâm


Hoa Văn

Thiếu Lâm là môn phái hùng mạnh nhất trên chốn võ lâm giang hồ, không chỉ là nơi xuất thân của nhiều anh hùng, mà còn là ngôi đền thiêng bảo tồn tinh thần võ đạo. Với triết lý sâu xa, giới luật nghiêm minh, võ công uyên bác. Thiếu Lâm gắn với hình ảnh là sự bất diệt của chính nghĩa, trí tuệ và lòng từ bi. 

>> Đặc biệt: Kênh YouTube Kiếm hiệp Kim Dung đã ra mắt. Đây là phiên bản phát triển của Việt kiếm hiệp Blog và sẽ liên tục sản xuất video mới hàng tuần.  > Click để xem!





Thiếu lâm trong lịch sử và truyền thuyết

Thiếu Lâm Tự, theo truyền thuyết, được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, trên núi Tung Sơn thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Chùa được vua Hiếu Văn nhà Bắc Ngụy dựng lên để tiếp đón và cung dưỡng Bồ Đề Đạt Ma – vị tổ sư của Thiền tông Phật giáo Trung Hoa, cũng là người được cho là khai sáng võ thuật Thiếu Lâm.

Truyền thuyết kể rằng, khi Bồ Đề Đạt Ma đến Thiếu Lâm, ông nhận thấy các nhà sư có thể chất yếu đuối, khó tu hành lâu dài nên đã sáng tạo ra phương pháp “Tập khí công” kết hợp thiền và vận động thân thể – từ đó hình thành nền móng võ công Thiếu Lâm. Dần dần, võ học phát triển, kết hợp giữa nội công – ngoại công, cương – nhu hài hòa. Thiếu Lâm trở thành một môn phái võ thuật vừa mang tính tự vệ, vừa thể hiện tinh thần thiền định sâu sắc.

Thiếu lâm trong thế giới kiếm hiệp Kim Dung

Trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, Thiếu Lâm không chỉ là một võ phái mà còn là biểu tượng cho chính đạo, Phật pháp và sự uy nghiêm trong giang hồ. Đây là nơi quy tụ nhiều cao tăng, đại sư sở hữu võ công thâm hậu, đại diện cho sự nghiêm cẩn, trí tuệ và từ bi.

Dưới ngòi bút Kim Dung, Thiếu Lâm có vai trò trung tâm trong các biến cố võ lâm, từ thời Bắc Tống đến Minh mạt. Dù nhiều lần lâm vào thế bị động hay khủng hoảng, Thiếu Lâm vẫn duy trì được vị thế tôn nghiêm, là “Thái Sơn – Bắc Đẩu” trong giang hồ.

Môn phái Thiếu lâm giữ vai trò nổi bật trong các tác phẩm sau:

- Thiên long bát bộ.

- Tiếu ngạo giang hồ.

- Ỷ thiên đồ long ký.

- Và cũng có mặt trong hầu hết các tác phẩm kiếm hiệp Kim Dung.

Võ công Thiếu lâm

Nội công thâm hậu:


Nội công Thiếu Lâm là nền tảng cho mọi chiêu thức, giúp gia tăng sức mạnh, sức chịu đựng và khả năng phục hồi. Các cao thủ như Huyền Từ phương trượng, Hư Trúc (trong Thiên long bát bộ) sở hữu nội công trầm ổn, thâm hậu, đủ để chống lại các địch thủ mạnh.

Các môn nội công nổi tiếng gồm: Dịch Cân Kinh: được cho là tuyệt kỹ do Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo, giúp người luyện cải biến thể chất, đả thông kinh mạch, gia tăng sức mạnh vượt bậc. La Hán phục ma thần công: nội lực cương mãnh, thích hợp để trấn áp tà đạo. 



Quyền cước và binh khí:

Võ công Thiếu Lâm thiên về quyền pháp, chưởng pháp và côn pháp. Các bài quyền mô phỏng hình tượng La Hán, Kim Cang, mô tả sự kết hợp giữa thiền định và sức mạnh:

- La Hán quyền: 72 chiêu, lấy thế “vô chiêu thắng hữu chiêu”, đơn giản nhưng ẩn chứa biến hóa.

- Kim Cang chưởng: dùng nội lực phát chưởng mạnh như sấm sét.

- Thiếu Lâm côn pháp: “Thiếu Lâm vô côn, vô dĩ vi Thiếu Lâm”, câu nói thể hiện vị trí trung tâm của côn pháp – đặc biệt là Giáng long thập bát côn.

Tuyệt học độc môn:

- Dịch Cân Kinh: được coi là bí tịch số một.

- Tẩy Tủy Kinh: ít được nhắc đến hơn, nhưng theo truyền thuyết, có thể cải tạo toàn bộ thân thể, thăng hoa cảnh giới nội lực.

- Phổ độ đại pháp: võ học cao cấp, chỉ truyền cho trụ trì.

Tổ chức – giới luật nghiêm minh

Khác với các môn phái như Võ Đang, Hoa Sơn, Cái Bang – nơi đệ tử có thể lập gia đình, tổ chức đơn giản, Thiếu Lâm duy trì đời sống tu hành khổ hạnh. Các đệ tử thường cạo đầu, tụng kinh, ăn chay, giữ giới.

Hệ thống chức sắc gồm có:

- Phương trượng: đứng đầu, thường là cao tăng đức độ và võ công cao cường.

- Đệ tử giới luật: chia làm nhiều cấp bậc: độn tăng, tăng nhân, tục gia đệ tử.

- Tám mươi hai La Hán đường: nơi các cao thủ tu luyện, phòng thủ nội viện.

- Đệ tử tục gia: theo môn phái Thiếu lâm nhưng không đi tu, ăn mặn.

Những nhân vật nổi bật trong tiểu thuyết Kim Dung

Huyền từ đại sư - trong tác phẩm Thiên long bát bộ. Là phương trượng uy nghiêm, có nội lực thâm hậu, là cha ruột của Hư Trúc (dù phạm giới luật). Huyền Từ không chỉ có võ công cao mà còn là người có đạo đức, sẵn sàng hy sinh bản thân vì chính nghĩa.

Hư Trúc (cũng trong Thiên long bát bộ). Từ một tiểu hòa thượng vụng về, Hư Trúc may mắn được truyền nội lực hơn 70 năm của Vô Nhai Tử, học được Tiểu Vô Tướng Công, rồi Dịch Cân Kinh. Sau này trở thành cao thủ bậc nhất, đứng ngang hàng với Tiêu Phong và Đoàn Dự.

Phương Trượng ( trong Tiếu ngạo giang hồ). Thiếu Lâm trong Tiếu ngạo giang hồ tuy không xuất hiện nhiều, nhưng vẫn giữ vai trò trung gian trong đại cục tam phái – Ngũ Nhạc – Nhật Nguyệt thần giáo. Hình tượng trụ trì ôn hòa, uyên bác, từng ngăn chặn tranh chấp đẫm máu.

Võ lâm và triết lý Phật giáo

Thiếu Lâm là biểu tượng cho sự kết hợp giữa Phật pháp và võ học. Trong thế giới Kim Dung, khi võ lâm sa vào tranh đoạt, chính Thiếu Lâm là nơi giữ sự ổn định. Các cao tăng nhiều lần đứng ra hòa giải các cuộc xung đột, thể hiện tinh thần “phá mê khai ngộ”, độ sinh cứu khổ.

Như trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ: dù Nhậm Doanh Doanh liên tiếp sát hại 4 sư đồ của phái Thiếu Lâm, nhưng Phương Trượng đã không trả thù, mà tha cho nàng. Giữ nàng trong Chùa dài ngày để mong nàng tự tu tỉnh.

Tư tưởng ấy cho thấy một chiều sâu nhân sinh: võ học không phải chỉ để chiến thắng, mà còn để giữ mình, tu tâm, và hướng thiện.

Một số tình tiết đáng nhớ về Thiếu Lâm trong kiếm hiệp Kim Dung

Trận chiến giữa Thiếu Lâm và các môn phái khác tại đại sảnh đường khi Vô Danh tăng ra tay, khiến cả võ lâm kinh hoàng. Trong tác phẩm Thiên long bát bộ.

Sự kiện Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn lẻn vào Tàng Kinh Các trộm sách võ, từ đó dẫn đến chuỗi kỳ ngộ đổi đời. Trong Thiên long bát bộ.

Truyền thuyết về môn nội công Dịch Cân Kinh chỉ có người có duyên mới học được. 


Chùa Thiếu lâm tổ chức đại hội đồ sư xử tội Tạ Tốn - quy tụ toàn bộ các môn phái và cao thủ võ lâm về hội tụ trên núi Thiếu thất. Tại đây Chu Chỉ Nhược đả bại Trương Vô Kỵ, dành ngôi thiên hạ đệ nhất võ lâm. 

Quách Tương đại náo chùa Thiếu lâm khi nàng ghé hỏi thăm tung tích thần điêu đại hiệp Dương Quá. Trong phần đầu tác phẩm Ỷ thiên đồ long ký.

Ngôi chùa thiêng trên chốn giang hồ

Trong kiếm hiệp Kim Dung, môn phái Thiếu Lâm không chỉ là nơi xuất thân của nhiều anh hùng, mà còn là ngôi đền thiêng bảo tồn tinh thần võ đạo. Với triết lý sâu xa, giới luật nghiêm minh, võ công uyên bác, Thiếu Lâm mãi là hình ảnh bất diệt của chính nghĩa, trí tuệ và lòng từ bi trong thế giới giang hồ.
..................

Tham khảo:

Đẳng cấp môn đồ Thiếu Lâm

Võ thuật diệu dụng hay không ở chỗ môn đồ thành công hay không, do đó đời đời Thiếu Lâm Tự thâu truyền môn đệ để truyền bá môn công phu kỹ thuật ấy. Giá trị của một Võ Phái không chỉ lo việc chỉ dạy võ thuật cho môn đồ mà ở chỗ hữu ích cho bản thân, cho quốc gia, xã hội để người đương thời cũng như hậu lai nghiệm xét võ phái ấy có ít lợi gì cho đời không. Nhiều võ phái thâu nhận môn đồ bừa bãi để khi thành công, người ấy dùng công phu bản lãnh làm việc bất chính, mất thanh danh môn phái.

Trong Thiếu lâm phái, trước khi thâu nhận một môn đồ, Sư trưởng, hoặc Võ tăng địa phương phải xem tướng pháp người môn đồ ấy, xem đức hạnh, sự kiên nhẫn, khảo về mục đích học võ công, được ở thử làm công một thời gian để xem sự biến chuyển của tâm lý tính hạnh : bao giờ đủ điều kiện tối thiểu mới chính thức cho học võ công. Nếu không chỉ được học chữ nghĩa văn chương, đạo lý và công quả kèm thêm phần tự vệ sơ đẳng.

Một môn đồ đã được thâu nhận cho học võ sau khi đã qua khảo sát tâm lý sẽ bắt đầu tu luyện ở bậc sơ đẳng, thường là 3 năm, mỗi năm phải thi lên, nếu hỏng thì được học lại ba tháng và thi lại. Qua sơ đẳng họ lên trung đẳng : 3 năm. Ở trình độ trung đẳng họ được phép xuống núi vì qua 6 năm tu luyện về mọi mặt họ đã có một căn bản võ công tạm xài, hoặc ra làm võ quan, hoặc mở đạo đường, hoặc làm bảo tiêu, hoặc giang hồ hiệp khách hạng nhẹ.

Tuy nhiên ai đã qua bậc trung đẳng đều muốn học thêm 4 năm cao đẳng nữa. Khi thành tài, mặc dầu dư sức chiếm một địa vị quan trọng trong chốn triều đình, họ không bao giờ ham vì sợ vướng chân hồ hải. Họ thường một mình một cõi hành hiệp giúp đời., hoặc làm nghề bảo tiêu, để khi về già giang hồ đầy cả hai vai, họ ẩn cư một nơi gió núi mây ngàn nào đó, vui cùng vũ trụ non xanh, cảnh sắc thanh tú, với một số môn đồ nối nghiệp. Cuộc đời của môn đồ Thiếu Lâm Tự hào hùng như một bản trường ca kỳ mỹ, thanh thoát như một đạo sĩ thoát trần và phóng nhoáng như gió thoảng rừng hoang. Từ lúc nhập học cho đến ngày hạ sơn, hành hiệp, ẩn cư là một bức tranh muôn màu muôn vẻ bên ngàn tiết điệu của cuộc đời. Thầy ấy, bạn ấy, cảnh sắc Tổ đình ấy, họ thâu nhận được toàn bộ võ công, tình cảm sư đệ thầy trò bên cạnh khí thế của non sông, họ cảm thấy quá đủ và không còn ham luyến một thứ gì cả. Do đó họ thành công về tài lẩn đức, đem lại thanh danh cho môn phái từ 15 thế kỷ nay, và mặc dủ Thiếu Lâm phái cũng có khi chìm, khi nổi, nhưng tùy hoàn cảnh võ phái vẫn muôn trời kiêu dũng siêu nhiên.

Một môn đồ Thiếu Lâm, dù ở cấp bậc nào cũng phải tụ tập đủ bốn phương diện :

1 – KINH PHÁP : những triết lý cao siêu của đạo Phật kiêm thêm những môn Tâm lý, xử thế, tổ chức….

2 – NỘI CÔNG : nội công là sức tiềm tàng chiụ đựng ở bên trong. Một người chuyên tập ngoại công có thể cử tạ ngàn cân. Với sức ép ngàn cân ấy nếu không có nội công họ sẽ bị nội thương ảnh hưởng đến lục phủ ngũ tạng. Theo Đạt Ma Sư Tổ thì một người chuyên luyện ngoại công tối đa chỉ có thể cử nổi 800 cân. Kèm theo nội công vận khí, họ có thể tăng lên 2000 cân mức độ tối thiểu. Theo pháp luyện nội công sơ đẳng lên cao đẳng họ phải luyện qua sáu bài Ngũ Tấn – lịnh thú ngũ quyền LONG HỔ BÁO XÀ HẠC – vận khí chuyển công thuật – Tấn nội công – thần công bí pháp – Dịch cân kinh Tiền – Hậu – Bộ dịch cân kinh này Nguyên văn của Tổ Sư viết bằng tiếng Phạn, dịch ra Hán văn do đại sư BÁT LẬP MẬT ĐẾ. Hiện chúng tôi sưu tầm được 8 bản : 1 bản chép tay, một bản bằng Phạn ngữ, một bản ở Hồng Kông, 3 bản này hy vọng là chân thư vì giống nhau dù ở thế hệ khác nhau, 5 bản kia thì 2 bản ở Macao, 1 bản Hồng kông, 1 bản Đài Loan và một bản chép tay, pha chế sai lung tung từ tiên gia, đạo gia các võ phái… Chúng tôi sẽ trình bày riêng pho nội công này ở bài kế và sẽ vạch những điều chân , giả.

Bộ Thiếu Lâm ký sự dài tập có ghi lại một câu chuyện “Loạn đã kinh mạch” đáng ta lưu ý khi luyện tập công :

Đời vua Hiến Tôn Thiếu Lâm Phái dưới quyền điều khiển của Nguyên hiệu thiền sư, chưởng môn đời thứ 16, có thu nhận một môn đồ cư sĩ. Sau 5 năm thọ giáo, bản lãnh của Lâm HồngHải, (tên của môn đồ ấy) vượt quá trung đẳng và được luân phiên canh giữ Tàng kinh các để có dịp nghiên cứu thêm các loại võ công, rộng đường trí thức. Mỗi phiên gác lầu kinh là 4 người, qua thời gian một tháng phải trao cho 4 vị khác, ngày bàn giao được kiểm điểm vô cùng kỹ lưỡng.

Trong 14 ngày đầu, họ Lâm say mê đọc tất cả những sách vận động luyện khí, số sách này thì có cả ngàn, trong 14 ngày đầu tiên ấy họ Lâm chỉ đọc được có mười cuốn, đạo ngấu nghiến, say mê, đã mất một nửa thời gian hạn định trong Tàng kinh các rồi, và ít nhất cũng 2 năm sau mới đến lượt mình, họ Lâm sững sờ luyến tiếc, và vì đọc quá nhiều, quá lộn xộn, kinh mạch vận khí khác phái xâm nhập tư tưởng, đảo lộn cả thói quen vận công của bổn phái, kinh mạch loạn đã, họ Lâm điên cuồng, đập phá và chạy tuốt vào rừng, các cao đồ phải đuổi theo bắt về, Nguyên hiệu sư trưởng phải điểm huyệt phế hết toàn bộ nội công luyện khí mới cứu tỉnh. Công phu tu luyện bao năm trời trôi theo dòng nước, phải bắt đầu lại tất cả. Xem chơi còn loạn cả đường kinh mạch huống gì là luyện sai hoặc khác phái, nguy hiểm tới bản thân không

3 –NGOẠI CÔNG : là cách tập luyện để có tấm thân nở nang, thẩm mỹ - đại lực – thuật ngữ võ học gọi là “thế khả bạt sơn, lực năng cử đỉnh”. Từ sơ cấp lên cao cấp môn đồ phải lấy nội công làm căn bản xong hoặc tập thạch xa, thạch phiến, thiết lư, thiết đỉnh… Môn đồ ở sơ cấp tối thiểu cử 300 cân, ở trung cấp 500 cân và ở cao cấp 800 cân, tuy ấn định như vậy nhưng các môn đồ thường đạt thành tích gấp đôi, gấp ba. Các môn như binh hành thuật – khinh công thuật – thuật nhảy xa, đăng sơn… cũng được xếp vào mục ngoại công, thay vì phần kỹ thuật.

4 – QUYỀN PHÁP : quyền pháp chiếm một phần vô cùng quan trọng. Môn đồ sơ đẳng phải tập 5 thứ tấn : trung bình, thảo mã, đinh tấn, độc cước tấn, hạc tấn – Ngũ thủ ; thôi sơn – cước đao, hùng chưởng, song chỉ - phượng dực – Tứ cước, kim tiêu cước, bàng long cước đảo sơn cước, tảo địa cước. Xong phần đó cho đến lúc thuần thục mới qua phần quyền pháp như các loại : Tứ trụ, Mai Hoa – Bát Tiên, Liên Hoa, La Hán, Kim cương. Mỗi bài gồm nhiều thế, mỗi thế chính này qua thế chính kia có một thế biến . Chính thế hay biến thế cũng tập thuần thục bằng bồn cách gọi là “tứ đẳng luyện” : CÔNG (đánh) , THỦ (giữ) , BIẾN (chuyển thế), PHÁ (phản đòn).

Mỗi bài có hai độ tập. Độ thứ nhật tập từng thế một, từ thế này qua thế kia cực kỳ chậm chạp, vận khí, chuyển gân để lấy nội công. Độ thứ hai tốc luyện, quyền cước phóng ra liên miên bất tận, nhãn pháp tinh tường, bộ pháp vững chải, thân pháp như giao long, thư pháp như sấm chớp, cước pháp liên tục như máy – Tâm pháp minh mẫn, khí pháp điều hòa.

Qua hai phần trên người tập phải ngồi quán tưởng cho bài quyền ấy chạy qua tâm trí lẹ như điện xẹt để lúc nào củng bản ứng thần tốc tự nhiên địch thủ vừa định tấn công, ta đã đánh trước. địch muốn đòn gì ta đã thấy rõ. Khi giao đấu nhờ thế vững tâm, kiểm soát đòn đánh của đối phương từ đầu đến cuối, không mất thì giờ tính toán, không thừa một đòn, không hở một thế. Trong thế công có thế thủ, trong phần thủ là chuẩn bị công… chúng tôi đã trình bày phần giao đấu và các câu tâm pháp luyện quyền ở phần “Thiếu Lâm tự chiến đấu”. Những mánh lới nhà nghề, những kinh nghiệm giao đấu của Thiếu Lâm trong tác phẩm “Thiếu Lâm Long hổ tranh hùng” dày 200 trang.

-----------------------------------------------

Bài liên quan:

No comments:

Post a Comment