Friday, January 16, 2015

Tiêu Dao phái

Cát Tường



Tiêu Dao là môn phái lớn trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, với chưởng môn đời thứ ba là Hư Trúc

Phái Tiêu Dao là một trong những môn phái lớn được nói tới trong tiểu thuyết kiếm hiệp đồ sộ Thiên Long Bát Bộ của nhà văn Kim Dung. Tiêu Dao có nghĩa là tự do tự tại, thong thả đây đó. Cái tên Tiêu Dao vừa mang quan điểm nhàn nhã vô vi của triết học Trang Tử, vừa bao hàm tư tưởng giải thoát của Phật giáo.

Với nguyên tắc tiêu dao như vậy, thành viên của phái Tiêu Dao thường yêu thích cuộc sống phiêu du, không ràng buộc, không gò bó, mà thích bay bổng như những lãng khách. Do sự phân tán của các đệ tử, phái Tiêu Dao không có tổng đà ở một vị trí địa lý cụ thể nào.

Xét về võ công, Tiêu Dao có những tuyệt kỹ công phu về võ thuật và độc dược. Như: Bắc minh thần công và Lăng ba vi bộ, được chưởng môn đời thứ hai là Vô Nhai Tử cất giấu trong pho tượng mỹ nhân Vô Lượng Ngọc Bích - trong một hang động gần núi Vô Lượng, tiếp giáp biên giới với nước Đại Lý (xét theo thời gian là vào khoảng thế kỉ thứ 12, ngày nay thuộc tỉnh Vân Nam TQ).

Người sáng lập phái Tiêu Dao là Tiêu Dao Tử, sau truyền tới Vô Nhai Tử và chưởng môn đời thứ ba là Hư Trúc. Môn phái Tiêu Dao không xuất hiện thêm nữa trong các tiểu thuyết khác của Kim Dung. Bảo vật trấn phái của chưởng môn Tiêu Dao là một chiếc nhẫn bằng bảo thạch.




Khởi điểm lập phái

Trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ, phái Tiêu Dao được sáng lập bởi một cao nhân mai danh ẩn tích và đã qua đời từ nhiều chục năm trước, chỉ được hậu thế nhắc đến với cái tên Tiêu Dao Tử. Tiêu Dao Tử tự mình nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều tuyệt học không chỉ về võ công, mà bao gồm cả cầm kỳ thi họa, và truyền lại cho ba người đệ tử của mình. Theo thứ tự nhập môn, gồm: Thiên Sơn Đồng Lão (nữ), Vô Nhai Tử (nam) và Lý Thu Thủy (nữ).

Trong Thiên Long Bát Bộ, Tiêu Dao là một trong những môn phái quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn tới cốt truyện. Mặc dù sự tồn tại của phái Tiêu Dao ít được người ngoài biết đến, nhưng thành viên của phái đều là những nhân vật nổi tiếng trong võ lâm. Nhưng có một điểm đặc biệt là do mâu thuẫn trong chuyện tình cảm yêu đương, hoặc vì tánh tình ích kỷ, mà các thành viên đã mâu thuẫn và không ở cùng một chỗ, mà phân tán, ly biệt. Thậm chí trở thành kẻ thù của nhau.

Hầu hết các đệ tử đời thứ nhất và cả đời thứ hai sau đều tự lập ra môn hộ riêng của mình. Như Tô Tinh Hà lập ra Lung Á môn, Đinh Xuân Thu lập ra phái Tinh Túc (Tinh Tú), Thiên Sơn Đồng Lão lập ra Linh Thứu cung, Lý Thu Thủy lập ra Tây Hạ Nhất Phẩm Đường ...v.v...

Võ công của phái Tiêu Dao thuộc hàng bác đại tinh thâm, không những giúp cho những ai có cơ duyên học được (như Cưu Ma Trí, Đoàn Dự) đều trở thành cao thủ, mà còn gián tiếp ảnh hưởng tới võ công của phái khác (sáng phái tổ sư của Vô Lượng kiếm phái nhìn hình ảnh phản chiếu cảnh luyện võ của Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy mà tự rút ra bản sắc võ học riêng).

Tan rã vì mâu thuẫn

Như đã biết, sư tổ Tiêu Dao Tử có 3 đệ tử đời thứ nhất là Thiên Sơn Đồng Lão, Lý Thu Thủy và Vô Nhai Tử.

Thiên Sơn Đồng Lão, Lý Thu Thủy là hai đệ tử nữ xinh đẹp, cùng đem lòng yêu đại ca là Vô Nhai Tử và cả hai đều nghĩ rằng y chỉ yêu duy nhất có mình. Nhưng cả hai có ngờ đâu trong lòng Vô Nhai Tử chỉ có hình bóng người em gái của Lý Thu Thủy, có dáng vóc giống hệt Lý Thu Thủy (chỉ khác ở chỗ cô em có má lúm đồng tiền và một nốt ruồi bên dưới mắt phải). Chính vì vậy, khi Vô Nhai Tử vẽ một bức tranh và tạc một pho tượng ngọc một người con gái, có vẻ bề ngoài giống hệt Lý Thu Thuỷ, đã gây ra sự hiểu lầm. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và không sao hóa giải được giữa ba người.

Thiên Sơn Đồng Lão yêu đại ca Vô Nhai Tử, nhưng lòng lại không tự tin, nghĩ rằng người trong mộng của Vô Nhai Tử là Lý Thu Thủy (mà không hề biết Vô Nhai Tử yêu em gái Lý Thu Thủy) nên rất không ưa Lý Thu Thủy. Còn Lý Thu Thủy thì cũng lầm tưởng Vô Nhai Tử yêu mình, nghi ngờ Thiên Sơn Đồng Lão phá rối chuyện tình cảm của mình, nên cũng rất ghét sư muội. Một lần, Lý Thu Thủy cố tình quấy nhiễu khi Thiên Sơn Đồng Lão đang tu luyện môn võ công có tên là Duy ngã độc tôn công, khiến cho Thiên Sơn Đồng Lão bị tẩu hỏa nhập ma, hậu quả là cơ thể không phát triển bình thường được nữa, suốt đời cứ mãi mang vóc dáng nhỏ bé như một đứa trẻ 7, 8 tuổi. (Chính vì vậy mới có tên là Thiên Sơn Đồng Lão - tức là vừa già (lão) lại vửa trẻ (đồng).

Để trả đũa, Thiên Sơn Đồng Lão đã dùng dao rạch vào mặt Lý Thu Thủy nhiều nhát, gây nhiều vết sẹo trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng. Chính vì vậy, Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy tuy là tỷ muội đồng môn, mà thù hận nhau vô cùng.

Trong tình cảnh như vậy, cả ba đệ tử của Tiêu Dao Tử đã phân tán, mỗi người một nơi.

Lý Thu Thủy ban đầu có quan hệ tình cảm và sinh một người con gái cho Vô Nhai Tử đặt tên là Lý Thanh La (về sau là Vương phu nhân), sau khi khi nhận ra người trong mộng của Vô Nhai Tử không phải là mình, đã bỏ sang nước Tây Hạ và trở thành một vương phi đầy quyền lực trong triều. Tại Tây Hạ, Lý Thu Thủy lập ra một môn phái là Nhất Phẩm Đường. Bà đã nhiều lần ra lệnh cho người của Nhất Phẩm đường vào Trung Nguyên tìm dò tung tích của những cựu thù của mình, trong đó có Thiên Sơn Đồng Lão.

Con gái của Lý Thu Thủy và Vô Nhai Tử là Lý Thanh La được gửi cho một đôi vợ chồng hiếm muộn nuôi nấng. Sau đó Lý Thanh La về làm dâu cho nhà họ Vương ở Tô Châu, nên được gọi là Vương phu nhân. Vương phu nhân có mối quan hệ tình cảm bất chính với Đoàn Chính Thuần (em trai hoàng đế nước Đại Lý) sinh ra người con gái xinh đẹp tuyệt trần là Vương Ngữ Yên.

Cũng cần nói thêm là trong ấn bản đầu tiên của Thiên Long Bát Bộ (bản nguyên thủy), Lý Thu Thủy không có em gái và Vô Nhai Tử cũng không yêu người con gái nào khác ngoài nàng. Như thứ mà ông say mê chính là ... pho tượng người con gái bằng ngọc bích do chính ông tạc ra! Vốn ban đầu Vô Nhai Tử muốn tạc một bức tượng giống Lý Thu Thủy để tặng người mình yêu. Nhưng đến khi hoàn thành, vốn là người say mê nghệ thuật, Vô Nhai Tử đã sáng tạo điểm thêm một nốt ruồi dưới mắt phải, vô tình làm cho vẻ đẹp của pho tượng càng trở nên toàn mỹ. Trong tâm lý học, đây là hội chứng Pygmalionism, lấy từ tên một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, để chỉ trường hợp khi một nghệ nhân tâm đắc với tác phẩm của mình đến mức yêu nó như người thật. Chính bức tượng này đã gây ra những hiểu lầm giữa ba người phái Tiêu Dao. Thiên Sơn Đồng Lão tưởng rằng Vô Nhai Tử yêu Lý Thu Thủy, còn Lý Thu Thủy hận Vô Nhai Tử bỏ người sống để yêu một bức tượng nên đem con gái cho người khác nuôi, còn bản thân thì bỏ sang Tây Hạ.

Phần Thiên Sơn Đồng Lão, rời bỏ sư huynh (Vô Nhai Tử), đi đến Phiêu Miễu phong ("phiêu miễu" có nghĩa là mù sương) thuộc núi Thiên Sơn và lập ra Linh Thứu cung, một môn phái gồm toàn nữ nhân.

Với môn võ công vô cùng hiểm ác là Sinh tử phù, ai đã bị dính sinh tử phù thì hàng năm đều phải uống thuốc giải, nếu không sẽ bị hành hạ về thể xác vô cùng đau đớn, Linh Thứu cung của Thiên Sơn Đồng Lão hàng phục được một nhóm gồm tới mấy chục bang hội, với hàng chục ngàn người, gọi chung là "tam thập lục động, thất thập nhị đảo" (36 động và 72 đảo). Linh Thứu cung bắt các thủ lĩnh của 36 động, 72 đảo hàng năm phải cống nộp vật phẩm cho mình. Bất mãn vì bị áp bức, nhóm bang hội này đã lập kế hoạch tấn công Phiêu Miễu phong vào lúc nghe tin Thiên Sơn Đồng Lão bị bệnh (chính là lúc Thiên Sơn Đồng Lão phái bế quan luyện công, khi đến lúc yếu hại).

Trong khi đó, Vô Nhai Tử thu nhận hai đồ đệ là Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu. Tô Tinh Hà bản tính tốt bụng, tiên phong đạo cốt, giỏi cầm kỳ thi họa, giống sư phụ của mình. Đinh Xuân Thu thì quỷ kế đa đoan, tâm địa ác độc, lại rất ưa nịnh.

Đinh Xuân Thu vì muốn chiếm chức vị chưởng môn và các pho võ công thượng thừa của Tiêu Dao phái, nên đã đánh lén sư phụ mình là Vô Nhai Tử ngã xuống vực, lại đánh trọng thương sư huynh Tô Tinh Hà. Tuy nhiên Vô Nhai Tử không chết, được Tô Tinh Hà đem giấu trong một mật thất. Còn bản thân Tô Tinh Hà thì phải giả thành kẻ vừa câm vừa điếc, để Đinh Xuân Thu thấy không còn nguy hại, mà không động đến mình nữa.

Thế nên ngoài cái tên Thông Biện Tiên Sinh ("thông biện" là giỏi lý luận biện bạch) Tô Tinh Hà có ngoại hiệu Lung Á Lão Nhân.

(Ghi chú: Tô Tinh Hà sinh thời có 8 đệ tử, gọi chung là "Hàm Tốc Bát Hữu", sống gần Hàm Cốc quan. Đó là: Khang Quảng Lăng, biệt hiệu "Cầm Điên"; Phạm Bách Linh,biệt hiệu "Kỳ Ma"; Cẩu Độc, biệt hiệu "Thư Ngai"; Ngô Lĩnh Quân, biệt hiệu "Họa Cuồng"; Tiết Mộ Hoa, biệt hiệu "Thần Y"; Phùng A Tam, biệt hiệu "Xảo Tượng"; Thạch Thanh Phong, biệt hiệu "Hoa Si"; Lí Khôi Lỗi, biệt hiệu "Hí Mê". Khi xảy ra biến cố Đinh Xuân Thu sát hại sư phụ và mình, Tô Tinh Hà đã phải tuyên bố "đuổi" cả 8 đệ tử ra khỏi phái, để tránh bị Đinh Xuân Thu sát hại theo).
Phần Đinh Xuân Thu, sau khi sát hại sư phụ và sư huynh mà vẫn không tìm ra được bí kíp võ công, liền lên vùng Tinh Túc Hải phía Đông tiếp tục tìm hiếm, vì y tin rằng hai tuyệt học Lăng ba vi bộ và Bắc minh thần công của Tiêu Dao phái được cất giấu ở vùng này. Tại đây, Đinh Xuân Thu lập ra phái Tinh Túc, gồm toàn những kẻ tiểu nhân bỉ ổi, nổi tiếng về sự độc ác và các võ công âm độc. Đinh Xuân Thu được gọi là Tinh Túc Lão Quái và nổi tiếng với Hóa công đại pháp, môn công phu chuyên tiêu hủy/hút nội lực của đối phương. Các đệ tử của Tinh Túc phái đều là kẻ tiểu nhân, đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, khua chiêng gõ trống đọc các bài vè ca tụng Đinh Xuân Thu.

Phá được thế cờ Trân Lung, Hư Trúc trở thành chưởng môn đời thứ ba

Chưởng môn đời thứ hai của Tiêu Dao Phái là Vô Nhai Tử, sau khi bị đệ tử Đinh Xuân Thu ám hại, đã được đệ tử còn lại là Tô Tinh Hà giấu trong một mật thất. Vô Nhai Tử đã nghĩ ra một thế cờ (cờ vây) vô cùng vi diệu đặt tên là Trân Lung (hay Trân Long). Vô Nhai Tử đã lệnh cho Tô Tinh Hà công bố thế cờ Trân Lung và tìm các bậc kỳ thủ khắp thiên hạ giải thế cờ này. Nếu ai giải được hẳn là bậc kỳ tài và sẽ được truyền lại ngôi vị chưởng môn Tiêu Dao phái (đời thứ 3). Nhưng suốt 30 năm trời ròng rã vẫn chưa có ai giải được thế cờ này.

Thực hiện chỉ thị của sư phụ, Lung Á Lão Nhân Tô Tinh Hà đã mời anh hùng thiên hạ đến giải thế cờ Trân Lung (bàn cờ vây được sắp xếp sẵn thành thế cờ để mọi người tìm cách giải). Bàn cờ này có một sức mê hoặc kì lạ, khiến Đoàn Diên Khánh, kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân bị mê hoặc và suýt nữa tự sát khi nghe lời khích của Đinh Xuân Thu vì không giải được.

Khi đó, nhà sư trẻ của phái Thiếu Lâm là Hư Trúc, vì muốn cứu Đoàn Diên Khánh mà đánh bừa một nước cờ, vô tình tự chẹt chết quân cờ của chính mình. Tuy nhiên nước cờ đó lại làm bàn cờ thoáng hơn. Sau đó, Hư Trúc đã phá được thế cờ Trân Lung khi được Đoàn Diên Khách bí mật nhắc nước đi. Nhờ đó, Hư Trúc được Tô Tinh Hà đưa vào mật thất gặp Vô Nhai Tử. Vô Nhai Tử tuy không hài lòng vì vẻ bề ngoài xấu xí của Hư Trúc (truyền thống của Tiêu Dao phái là các môn nhân ai cũng phải là trai xinh gái đẹp), nhưng cuối cùng nghĩ rằng âu cũng là duyên số, nên đã truyền hết nội công 70 năm tu luyện của mình cho Hư Trúc, đồng thời trao ngôi vị chưởng môn đời thứ ba và chiếc nhẫn chưởng môn. Ngay khi đó, Đinh Xuân Thu đã tìm vào được mật thất và dùng độc công Tam tiếu tiêu dao táng sát hại sư phụ Vô Nhai Tử và sư huynh Tô Tinh Hà. Riêng Hư Trúc nhờ có nội công thâm hậu do Vô Nhai Tử truyền cho, nên chất độc không nhiễm vào cơ thể được, mà thoát chết.

Trên đường trở lại chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc tình cờ gặp và cứu được Thiên Sơn Đồng Lão (lúc này đang tạm mất võ công do tu luyện Duy ngã độc tôn công dang dở) từ tay bọn 36 động chủ và 72 đảo chủ.

Tiếp đó, với mong muốn truyền dạy võ công cho Hư Trúc, để Hư Trúc bảo vệ cho mình cũng như hỗ trợ tấn công kẻ thù (cũng chính là sư muội của mình) là Lý Thu Thủy, Thiên Sơn Đồng Lão đã làm cho Hư Trúc tự nguyện phá giới Phật môn, từ ăn mặn cho tới quan hệ nam nữ. Bà cũng lần lượt truyền cho Hư Trúc những môn võ công mạnh nhất của mình, trong đó có Thiên Sơn lục dương chưởng - vốn để hóa giải Sinh tử phù.

Sau đó, dưới hầm băng của hoàng cung nước Tây Hạ, Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy đã có trận đánh nhau đến lưỡng bại câu thương. Cả hai vô tình đã truyền toàn bộ nội lực của mình qua người Hư Trúc. Nội lực của Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy rất mạnh, lại đối địch nhau, Hư Trúc không thể nào dung nạp được mà có thể đã táng mạng cùng bọn họ. Tuy nhiên trong người chàng đã có sẵn nội lực của Vô Nhai Tử, nhờ nó điều hòa hai nguồn nội lực tương phản kia. Qua chuyện này, Hư Trúc đã mang trong mình mấy chục năm tu luyện của ba cao thủ phái Tiêu Dao, cũng là ba nguồn cơn ân oán tưởng như không dứt.

Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy đồng loạt qua đời sau trận quyết chiến. Trong giây phút lâm chung, cả hai đã được Hư Trúc đưa xem bức tranh vẽ người con gái xinh đẹp do Vô Nhai Tử vẽ và trao cho mình. Qua dấu hiệu nốt ruồi trên bức tranh, Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy rơi vào trạng thái vừa khóc vừa cười, trong nỗi hân hoan và cả niềm đau đớn, khi nhận ra Vô Nhai Tử không hề yêu ai trong số họ.

Phần Hư Trúc, sau đó trở lại Phiêu Miễu phong, dùng võ công Thiên sơn lục dương chưởng để giải Sinh tử phù cho đám quần chúng 36 động và 72 đảo. Qua đó. Hư Trúc đã cảm hóa được nhóm người này và khiến họ tự nguyện quy phục về Linh Thứu cung một lần nữa, nhưng lần này là hoàn toàn tự nguyện.

Tiếp đó, trên núi Thiếu Lâm, Hư Trúc cũng đã đánh bại kẻ phản tặc Tiêu Dao là Đinh Xuân Thu, bằng cách cấy Sinh tử phù vào người lão. Đinh Xuân Thu bị quản thúc tại chùa Thiếu Lâm. Lão bị Sinh Tử Phù hành hạ và chỉ được ban thuốc giải tạm thời nếu biết ăn năn hối cải.

Mọi ân oán trong nội bộ phái Tiêu Dao cũng như giữa Phiêu Miễu phong với nhân sĩ giang hồ đến đây chấm dứt.

Võ công Tiêu Dao phái

Võ công của Tiêu Dao phái cực kỳ lợi hại, những người có cơ duyên học được đều trở thành cao thủ hàng đầu trên chốn võ lâm.

Hầu hết các môn võ này được cho là do Tiêu Dao Tử, tiền bối sáng lập phái Tiêu Dao sáng tạo ra. Có thể tóm lược như sau:

- Thiên Sơn Đồng Lão học được môn Bát hoang lục hợp duy ngã độc tôn công.

- Vô Nhai Tử học Bắc minh thần công và Lăng ba vi bộ.

- Lý Thu Thủy có được môn Thiên Giám thần công, Tiểu vô tướng công và Quy tức công.

Ngoài ra còn một số võ công khác do các đệ tử đời sau của ông tự sáng tạo hoặc chỉnh sửa thành một môn võ mới như Đinh Xuân Thu luyện thành Hóa công đại pháp từ cơ sở của Bắc minh thần công, Thiên Sơn Đồng Lão tạo ra Thiên Sơn chiết mai thủ, Thiên Sơn lục dương chưởng và Sinh tử phù,...

Các môn võ công của phái Tiêu Dao thường có những cái tên rất đẹp như:

- Lăng ba vi bộ (bước đi trên sóng), Thiên Sơn chiết mai thủ (thủ pháp hái hoa mai Thiên Sơn).

- Một số chiêu thức trong Thiên Sơn lục dương chưởng như Dương xuân bạch tuyết, Dương Quan tam điệp, Dương ca thiên quân đều lấy từ tên các danh tác cổ cầm của Trung Quốc.

Không chỉ có tên đẹp, võ công phái Tiêu Dao khi thi triển cũng hết sức đẹp mắt, vừa nhẹ nhàng phiêu dật, vừa linh động thanh thoát. Khi Hư Trúc và Đinh Xuân Thu giao đấu ở Thiếu Lâm tự, quần hùng nhìn vào không hiểu hai người dùng loại võ công quái lạ gì, chỉ thấy một bên đồng nhan bạch phát, như thể thần tiên, một bên tay áo phất phơ, đi mây về gió. Hai bên cứ vừa chạm vào nhau thì lại dang ra, chẳng khác gì một đôi bướm giữa muôn hoa, ung dung tiêu sái.

Cầm kỳ thi họa và độc dược ở Tiêu Dao phái

Bên cạnh võ công, đệ tử Tiêu Dao còn là những bậc thầy trong các nghề thủ công, nghệ thuật và biết vận dụng những kỹ năng này vào chiến đấu. Chẳng hạn Ngô Lãnh Quân biết dùng bút vẽ tấn công, Khang Quảng Lăng dùng chỉ cách không để gảy đàn nhưng cũng gây sát thương, thậm chí Cẩu Độc còn có thể dùng lời nói lý luận mà làm cho đối thủ rối loạn.

Tuy nhiên kỹ năng nổi bật nhất là điều chế dược liệu. Đinh Xuân Thu có bản lĩnh chế độc hàng đầu. Y có một báu vật gọi là Thần Mộc Vương Đỉnh làm từ gỗ cây ngô đồng để thu hút các loại độc trùng như băng tằm, rắn rết. Y hút độc của các loài vật này để luyện công nên trong chưởng cũng mang chất độc. Đinh Xuân Thu còn nổi tiếng với món độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, khiến bất cứ ai trúng phải đều cười ba lần trước khi chết. Thiên Sơn Đồng Lão thì có loại thuốc độc Hủ Cân Đoạn Cốt Hoàn, làm cho địch nhân đứt hết gân cốt rồi chết trong đau đớn.

Bên cạnh dụng độc, Tiêu Dao phái cũng biết dùng y thuật, dược liệu để cứu người. Thần y Tiết Mộ Hoa, người được xưng tụng là "Diêm Vương Địch", đã cứu sống A Châu khi nàng đang hấp hối. Hư Trúc nhờ học được các y thuật của Linh Thứu cung mà có thể nối lại mắt cho A Tử. Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy còn có thuốc Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn chuyên trị kim sang ngoại thương, hoàn hồn tục mệnh, linh nghiệm không gì sánh kịp.

Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: "ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không nhìn thấy cá bao giờ". Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ 1 chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. - yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải

Bắc minh thần công

Bắc minh thần công là một trong những môn võ hàng đầu của phái Tiêu Dao với nội dung chủ yếu là lấy nội lực của người khác làm của mình. Bí tịch Bắc minh thần công gồm 36 trang vẽ hình các cô gái khỏa thân, hình nào cũng có một sợi chỉ màu chạy trên thân hình chỉ rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công. Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, nên ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Khi tu luyện Bắc minh thần công cần đề phòng hút nội lực của kẻ mạnh hơn mình, đồng thời phải quên hết những võ công đã học, nếu không sẽ có quá nhiều loại nội công dị chủng hoành hành trong cơ thể.

Có ba người học được bộ võ công này là Vô Nhai Tử, Đoàn Dự, Hư Trúc. Trong đó, chỉ có Vô Nhai Tử là học xong toàn bộ. Hư Trúc chỉ học được cách vận khí từ Thiên Sơn Đồng Lão nhằm giúp bà ta đối phó với đám người trong 36 động, 72 đảo. Dưới hầm băng Tây Hạ, khi Hư Trúc phạm sắc giới định tự tử bằng cách lao đầu vào tường, nhờ có Bắc minh chân khí hộ thể nên không chết. Đoàn Dự, một nhân vật chính khác trong Thiên Long Bát Bộ, cũng có duyên nhận được bộ võ công này nhưng lại chỉ học trang đầu tiên. Trong khi Đinh Xuân Thu dành cả đời tìm kiếm Bắc minh thần công ở Tinh Túc Hải, y không ngờ nó lại được giấu trong tấm bồ đàn ngay trước bước tượng ngọc bích của cô gái mà Vô Nhai Tử yêu khi xưa. Đoàn Dự trong một lần dạo chơi ở Vô Lượng sơn đã vô tình nhận được hai quyển mật tịch này khi làm một chuyện tưởng như điên rồ là rập đầu trước tấm bồ đàn 1000 cái để tấm bồ đàn rách ra và lộ hai quyển bí tịch. Thành tựu của Đoàn Dự không nổi bật ngoại trừ khả năng hút nội lực của người khác. Nhờ hút được công lực của nhiều cao thủ, trong đó có Cưu Ma Trí mà nội công của Đoàn Dự cũng trở nên thâm hậu.

Hóa công đại pháp là một môn nội công được sáng tạo bởi Đinh Xuân Thu dựa theo Bắc minh thần công. Cả hai có cùng mục đích là làm suy yếu nội lực của đối thủ, nhưng Bắc minh thần công có thể đem nội lực của đối phương để cho bản thân sử dụng, trong khi nguyên lý của Hóa công đại pháp lại là hút chất độc từ các loài độc vật vào rồi đánh vào cơ thể để tán hóa nội công của đối thủ. Bộ võ công này khuyết điểm là phải hút chất độc hằng ngày và cần dùng Thần Mộc Vương Đỉnh để luyện công. Đây cũng là nguyên nhân khi A Tử đánh cắp Thần Mộc Vương Đỉnh, Đinh Xuân Thu phải từ Tinh Túc hải trở về Trung Nguyên để truy tìm.

Lăng ba vi bộ

Đây thực chất không phải là một công phu riêng rẽ mà là một trang cuối cùng trong bí tịch Bắc minh thần công. Cái tên Lăng ba vi bộ có nghĩa là "nhẹ nhàng đạp sóng", lấy từ một câu trong bài Lạc thần phú ("bài phú về nữ thần sông Lạc") của Tào Thực thời Tam Quốc. Đây là một loại bộ pháp, hướng dẫn cách di chuyển dựa trên phương vị 64 quẻ của Kinh dịch. Kinh dịch biến ảo khôn lường, cho nên Lăng ba vi bộ cũng bách biến đa dạng, một khi thi triển thì không ai có thể nắm bắt. Do đó nó được mệnh danh là đệ nhất khinh công trong thiên hạ. Đoàn Dự nhờ học được Lăng ba vi bộ nên dù võ công kém cỏi nhưng gặp lúc hung hiểm vẫn có thể dễ dàng thoát thân.

Bát hoang lục hợp duy ngã độc tôn công

Là võ công của tổ sư sáng lập phái Tiêu Dao chân truyền cho Thiên Sơn Đồng Lão. Bản chất của công phu này là cải lão hoàn đồng, làm cho cơ thể trẻ lại còn nội công thì tăng tiến. Người luyện Duy ngã độc tôn công mỗi 30 năm phải tiến hành cải lão một lần, mỗi lần lại mất thêm 30 ngày. Trong thời gian đó cơ thể sẽ tạm thời mất hết võ công, mỗi ngày đều phải uống máu tươi để điều hòa kinh mạch. Thiên Sơn Đồng Lão luyện môn võ này từ năm 6 tuổi. Năm 26 tuổi khi bà tu luyện có chút thành tựu thì bị Lý Thu Thủy phá ngang, khiến tẩu hỏa nhập ma, cơ thể không phát triển được nữa. Vào thời điểm các sự kiện của Thiên Long Bát Bộ diễn ra, Thiên Sơn Đồng Lão đã 96 tuổi, cải lão hoàn đồng cần 90 ngày. Chính trong thời gian này mà Lý Thu Thủy nhân cơ hội tìm tới Thiên Sơn trả thù. Thiên Sơn Đồng Lão và Hư Trúc phải trốn vào hầm băng trong hoàng cung Tây Hạ, lại bắt các loại trân cầm dị thú trong ngự hoa viên uống máu luyện công. Chẳng may Thiên Sơn Đồng Lão bị Lý Thu Thủy khiêu khích dẫn đến tung tích bại lộ. Mặc dù chưa luyện thành thần công, cơ thể lại mang thương tích, nhưng Thiên Sơn Đồng Lão vẫn đánh ngang ngửa với Lý Thu Thủy.

Tiểu vô tướng công

Lý Thu Thủy được sư phụ Tiêu Dao Tử chân truyền cho bộ võ công này theo chân lý nội lực là gốc chiêu thức là ngọn, dùng nội lực để bắt chước chiêu thức đối thủ. Nếu luyện công phu này, chỉ cần biết gia số chiêu thức thì có thể dựa nào nội công của mình để thi triển bất cứ tuyệt học nào mà không có ai nhận ra được, thậm chí uy lực còn mạnh hơn nguyên bản. Từ đó mới có cái tên "Tiểu vô tướng công", tức môn công phu không có hình hài. Tiểu vô tướng công mặc dù là Đạo giáo võ học nhưng có đặc điểm là dựa vào thuyết "vô sắc vô tướng" của Phật giáo. Đây là thần công phòng thân của Lý Thu Thủy. Năm xưa mấy lần bị Thiên Sơn Ðồng Lão gia hại, Lý Thu Thủy đều dùng Tiểu vô tướng công bảo trì được tính mạng. Cưu Ma Trí sau đó học lỏm được một phần do Mộ Dung Bác ăn cắp được từ Lang Hoàn Ngọc Động của nhà Vương Ngữ Yên. Y đến Thiếu Lâm Tự thách thức rằng mình đã học được hết 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, thực chất chỉ là dùng Tiểu vô tướng công thi triển mà thôi.

Sinh tử phù và Thiên Sơn lục dương chưởng

Sinh tử phù là võ công đặc dị do Thiên Sơn Đồng Lão sáng chế. Đây là một loại ám khí, nhưng không phải làm từ gỗ hay kim loại mà là dùng nội lực hóa thủy thành băng rồi phong ấn vào cơ thể địch nhân. Khi bị trúng Sinh tử phù thì cơ thể sẽ ngứa ngáy đến không thể chịu nổi. Nếu không dùng thuốc giải đặc chế của Linh Thứu cung thì sẽ vật vã khổ sở, muốn sống không được, chết cũng không xong. Tuy nhiên thuốc giải cũng chỉ là tạm thời. Để hóa giải hoàn toàn Sinh tử phù cần Thiên Sơn lục dương chưởng, vốn là công phu chí dương. Trong mỗi Sinh tử phù có bao nhiêu phần âm bao nhiêu phần dương, lại nằm trong huyệt đạo nào thì chỉ có người gieo mới nắm rõ. Lúc bấy giờ mới dùng nội lực của Thiên Sơn lục dương chưởng cân bằng lại rồi hút Sinh tử phù ra ngoài.

Chính nhờ Sinh tử phù này mà Thiên Sơn Đồng Lão đã chi phối 36 động, 72 đảo. Mỗi năm người của cung Linh Thứu sẽ đi phát thuốc giải một lần, đi đến đâu cũng hách dịch ra yêu sách. Bọn người của 36 động, 72 đảo tuy căm phẫn vì bị ức hiếp nhưng vẫn không dám phản kháng vì như thế vẫn tốt hơn là bị Sinh tử phù hành hạ. Sinh tử phù còn được Hư Trúc sử dụng để đánh bại Đinh Xuân Thu, thanh lý môn hộ. Mối thù của Vô Nhai Tử được trả bằng một công phu của Thiên Sơn Đồng Lão, ân tình bao nhiêu năm giữa hai người đến lúc chết vẫn chưa dứt.

Thiên Sơn lục dương chưởng tổng cộng có 6 thức, nhưng trong Thiên Long Bát Bộ chỉ đề cập đến tên của 3 thức được Hư Trúc sử dụng để bảo hộ Thiên Sơn Đồng Lão khỏi chưởng lực của Lý Thu Thủy. 3 thức đó bao gồm:

Dương ca thiên quân

Dương xuân bạch tuyết: lấy từ tên của một trong thập đại danh tác cổ cầm Trung Quốc. Đây nổi tiếng là một cầm phổ khó chơi. Dương Xuân Bạch Tuyết dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa xuân sang, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao mùa vẫn còn cái hơi lạnh của mùa đông nhưng đã có cái ấm áp của mùa xuân. Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, nhẹ nhàng như nước chảy bên tai, làm người nghe quên cả trời đất, cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái.

Dương Quan tam điệp: Dương Quan là một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây" của Vương Duy là một bài thơ tiễn biệt rất đặc sắc. Vua Đường Huyền Tông lấy vào Nhạc phủ phổ thành một bài hát gọi là "Dương Quan tam điệp" (ba nhịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn biệt nhau.

Thiên Sơn chiết mai thủ

Hoa mai trên núi Thiên Sơn là loài hoa tượng trưng cho người quân tử, cao khiết nhưng cô độc, kiêu hãnh nhưng cũng rất mong manh. Người hái mai phải vừa khiêm cung vừa điềm tĩnh, tâm thế phải quyết đoán còn động tác phải nhanh gọn và chuẩn xác. Dựa trên thủ pháp hái mai mà Thiên Sơn Đồng Lão đã sáng tạo ra công phu này. Thiên Sơn chiết mai thủ phá giải tất cả võ công trong thiên hạ dù mạnh tới đâu, bao gồm 3 lộ chưởng pháp và 3 lộ cầm nã thủ, trong đó có ẩn chứa chiêu thức của kiếm pháp, đao pháp, tiên pháp, thương pháp, trảo pháp, phủ pháp các tuyệt chiêu của mọi loại binh khí, biến hóa rất phức tạp.

......

Nhân vật

Thành viên của phái Tiêu Dao tuy không nhiều nhưng đều là những người có cá tính đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

Phần lớn đệ tử Tiêu Dao có tâm thế như những nghệ sĩ, thích ngao sơn ngoạn thủy, đắm chìm trong tình yêu, đam mê sáng tạo, xa lánh thị phi chốn giang hồ. Họ còn rất thông thạo các bộ môn nghệ thuật. Vô Nhai Tử đan thanh diệu bút, điêu khắc công trình, công nghệ tạp học, y bốc tinh tướng không gì là không biết. Trận cờ Trân Lung do ông sắp đặt cũng làm cho bao nhiêu cao thủ phải bó tay. Mặt khác, do bản chất nghệ sĩ, đệ tử Tiêu Dao phái cũng có tính cách khá gàn dở, hành xử tùy tiện, vui buồn thất thường. Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy tuy đều là những bậc trưởng bối võ lâm, nhưng vẫn cố chấp ghen tuông, tranh đấu mấy chục năm để rồi nhắm mắt xuôi tay với biết bao nỗi luyến tiếc. Vô Nhai Tử tuy ở bên Lý Thu Thủy nhưng vẫn tơ tưởng đến cô em gái của nàng. Ngoài ra còn có tám đệ tử chân truyền của Tô Tinh Hà say mê nghệ thuật tới quên cả luyện võ công, v.v...

Bên cạnh nét tài hoa, đệ tử Tiêu Dao còn có dung mạo phi phàm xuất chúng. Vương Ngữ Yên, vốn là cháu ngoại của Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy, là "thần tiên tỷ tỷ" trong lòng Đoàn Dự. Lý Thu Thủy bản thân cũng là một tuyệt sắc giai nhân. Thiên Sơn Đồng Lão tuy cơ thể nhỏ bé, nhưng khóe mắt long lanh, má đỏ hây hây, dung nhan như mùa xuân. Thậm chí đến một tên đại gian đại ác như Đinh Xuân Thu cũng được miêu tả là mặt hồng râu bạc, mắt sáng quắc, nhìn từ xa như một vị tiên ông. Khi Vô Nhai Tử và Thiên Sơn Đồng Lão gặp Hư Trúc lần đầu tiên, thấy người kế nhiệm chưởng môn phái Tiêu Dao chỉ là một nhà sư xấu xí khù khờ, thì đều buông lời chê bôi cảm thán.

....

Phả hệ của môn phái Tiêu Dao

Người sáng lập

Tiêu Dao Tử là tổ sư phái Tiêu Dao, tuy nhiên không có nhiều thông tin về thân thế cũng như cuộc đời của ông. Hầu hết các môn tuyệt kỹ của phái là do ông sáng tạo hoặc thu thập được. Ông chỉ truyền cho ba đệ tử của mình mỗi người một số loại công phu nhưng về sau ai cũng đạt được thành tựu to lớn, trở thành những nhất lưu cao thủ trong giang hồ.

Đệ tử đời thứ 2

Thiên Sơn Đồng Lão:  chủ nhân Linh Thứu cung, có sở trường võ học Bát hoang lục hợp duy ngã độc tôn công, Thiên Sơn chiết mai thủ, Thiên Sơn lục dương chưởng và Sinh tử phù. Bà yêu đơn phương Vô Nhai Tử và có mối hận bình sinh với Lý Thu Thủy. Đồng lão chết vì kiệt sức sau khi quyết đấu với Lý Thu Thủy dưới hầm băng Tây Hạ.

Vô Nhai Tử: chưởng môn nhân thứ 2 của phái Tiêu Dao, sở trường Bắc minh thần công. Ông bị đệ tử là Đinh Xuân Thu ám toán, khiến cơ thể tàn phế, phải ẩn mình trong mật thất. Ông bày ra trận cờ Trân Lung mà Hư Trúc là người có cơ duyên phá giải. Vô Nhai Tử qua đời sau khi truyền cho Hư Trúc 70 năm công lực và chiếc nhẫn chưởng môn.

Lý Thu Thủy: có mối tình thanh mai trúc mã với Vô Nhai Tử. 2 người có với nhau một người con gái, sau làm dâu nhà họ Vương ở Tô Châu (mẹ ruột của Vương Ngữ Yên). Sau vì hận Vô Nhai Tử nên bà bỏ sang Tây Hạ và trở thành thái phi, lập ra Nhất Phẩm Đường. Lý Thu Thủy chết sau trận quyết đấu với Thiên Sơn Đồng Lão.

Đệ tử đời thứ 3

Tô Tinh Hà: ngoại hiệu Thông Biện tiên sinh , sau khi Đinh Xuân Thu ám sát sư phụ thì giả câm giả điếc, nên còn có tên Lung Á lão nhân . Ông bị Đinh Xuân Thu giết hại bằng chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.

Đinh Xuân Thu: chưởng môn phái Tinh Túc, sở trường các món võ công âm độc như Hóa công đại pháp. Sau bị Hư Trúc cấy Sinh tử phù vào người, phải chịu quản thúc ở Thiếu Lâm Tự.

Hư Trúc: chưởng môn đời thứ 3, đồng thời là chủ nhân Linh Thứu cung. Chàng có cơ duyên học được các môn công phu lợi hại cùng nội lực của 3 người Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy. Hư Trúc còn là anh em kết nghĩa với Tiêu Phong và Đoàn Dự.

Đệ tử đời thứ 4

Hàm Cốc Bát Hữu

Tô Tinh Hà có tám đệ tử chân truyền, vì không muốn cắt lưỡi chọc tai họ nên ông đã đuổi họ khỏi Tiêu Dao phái sau khi xảy ra vụ Đinh Xuân Thu ám sát Vô Nhai Tử. Tám người này được gọi là Hàm Cốc Bát Hữu. Tô Tinh Hà học được của sư phụ cái tính đàm mê cầm kỳ thi họa các môn nghệ thuật quá mải mê nên võ công không phát triển được hết cỡ. Tám đệ tử của ông cũng giống sư phụ, mỗi người lại học một môn nghệ thuật thành ra bỏ bê võ công, cũng chỉ thuộc loại trung bình.

Cầm Tiên Khang Quảng Lăng: tên của ông được ghép từ Kê Khang và khúc nhạc Quảng Lăng Tán của ông, là đại đệ tử của Tô Tinh Hà, giỏi đánh đàn, được gọi với ngoại hiệu Cầm tiên. Trong bản cũ của Hàn Giang Nhạn tiên sinh, y là sư phụ của A Bích (tiểu a hoàn nhà Mộ Dung), có tuyệt kĩ dùng chỉ cách không đánh đàn tương tự Hà Túc Đạo trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, 1 lúc có thể đánh nhiều cây đàn. y còn là tri kỷ của Huyền Khổ Đại Sư Thiếu Lâm tự.

Kỳ ma Phạm Bách Linh: Nhị sư huynh, tuyệt nghệ cờ vây, được sư phụ khen là kì thủ số 1 thiên hạ, võ công cũng đứng hàng thứ 2 trong số 8 đệ tử. Thường sử dụng bàn cờ làm bằng nam châm đúc thành, có tác dụng hút binh khí của đối phương, tương tự Hắc Bạch Tử trong Tiếu Ngạo Giang Hồ.

Thư ngại Cẩu Độc: tên này có nghĩa là bạ cái gì cũng đọc. Y đọc rất nhiều sách, tính hay cãi cùn, lý luận. Trong truyện, y dùng miệng lưỡi thuyết pháp mà làm cho Huyền Thống ngộ đạo viên tịch... Võ công đứng thứ 3, không sử dụng binh khí.

Họa cuồng Ngô Lãnh Quân: đứng thứ 4 trong sư huynh đệ, trước vốn là tướng quân, làm quan đánh trận nên có tên Lãnh Quân, là 1 tay họa sĩ, sử dụng phán quan bút.

Thần y Tiết Mộ Hoa: xuất hiện nhiều nhất trên giang hồ với danh hiệu Diệu Thủ Hồi Xuân - Diêm Vương Địch, y thuật quán thế, vô song thiên hạ... Từng chữa trị nội thương cho A Châu (con gái bị thất lạc của Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc), tình nhân của Kiều Phong. Vì tài y thuật, ông kết giao với rất nhiều bằng hữu, thường nhờ họ dạy cho vài chiêu vì thế kiến thức võ công đa dạng, tuy nhiên không luyện tạp trung môn nào cả nên trình độ cũng chỉ tầm thường.

Xảo tượng Phùng A Tam: là 1 tay thợ có hạng trước khi gia nhập phái Tiêu Dao. Trong truyện, y có bản lãnh chế tạo và phát hiện cơ quan vào loại phi thường, sử dụng cây búa Lỗ Ban làm vũ khí.

Hoa sĩ Thạch Thanh Lộ: là nữ đệ tử duy nhất của Tô Tinh Hà, sở trường về trồng hoa và am hiểu các đặc tính dược thảo, từng dùng thuốc mê phấn hoa đánh ngã Đặng Bách Xuyên.

Hí mê Lý Quỷ Lỗi: "khổi lỗi" nghĩa là con rối. Bản tính người này giống như tên, lúc nào cũng điên điên khùng khùng, tưởng mình đang đóng tuồng hát, đóng được cả vai đào lẫn vai kép. Võ công tầm thường, không nổi bật, có điều thuộc rất nhiều tuồng cổ.

Môn hạ Linh Thứu cung

Linh Thứu cung ở đỉnh Phiêu Miễu trên dãy Thiên Sơn do Thiên Sơn Đồng Lão sáng lập. Trong cung gồm toàn đàn bà con gái do Đồng Lão cứu được từ những hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo nên một lòng một dạ trung thành với chủ nhân. Trước khi qua đời, Thiên Sơn Đồng Lão đã giao lại vị trí thủ lĩnh Linh Thứu cung cho Hư Trúc.

Linh Thứu cung được chia làm 9 bộ, được đặt theo tên 9 tầng trời "cửu trùng thiên") trong vũ trụ quan của Trung Quốc cổ đại, bao gồm: Dương Thiên bộ, Xích Thiên bộ, Chu Thiên bộ, Thành Thiên bộ, U Thiên bộ, Huyền Thiên bộ, Biến Thiên bộ, Loan Thiên bộ và Quân Thiên bộ.

Một số môn hạ của Linh Thứu cung tiêu biểu:

Nhóm tứ kiếm: gồm 4 chị em ruột xinh đẹp, được Thiên Sơn Đồng Lão đem về nuôi dạy từ nhỏ, gồm: Mai Kiếm; Lan Kiếm; Trúc Kiếm và Cúc Kiếm

Đặng Bà là thủ lĩnh Cửu thiên bộ

Dư Bà là thủ lĩnh Chu thiên bộ

.....

Nhóm các bang phái, môn hộ bị Linh Thứu Cung bắt quy phục, cống nạp hàng năm

Vô Lượng kiếm phái là một môn phái nhỏ đóng trên núi Vô Lượng ở nước Đại Lý. Môn phái này bị buộc phải phục tùng Linh Thứu cung của Thiên Sơn Đồng Lão. Các thành viên tiêu biểu được nhắc tên trong Thiên Long Bát Bộ bao gồm:

Tả Tử Mục là chưởng môn Đông tông phái Vô Lượng

Tân Song Thanh là chưởng môn Tây tông phái Vô Lượng

Thủ lĩnh của 36 động và 72 đảo là một nhóm các nhân sĩ võ lâm bị buộc phải phục tùng Linh Thứu cung. Họ bị Thiên Sơn Đồng Lão đối xử khắc nghiệt nên đã nổi dậy chống lại. Một số các thủ lĩnh là:

Tang Thổ Công
Huyền Hoàng Tử
Chương Đạt Phu
Đoan Mộc Nguyên
Lê Phu Nhân
Bất Bình Đạo Nhân
Thôi Lục Hoa

.......