Saturday, November 11, 2017

Thú chơi hoa "điếc không sợ súng" của Vương phu nhơn

Bạch Y Ngũ Bút

Vương phu nhơn là mẹ của người đẹp tựa tiên nữ Vương Ngữ Yên, cô gái dịu dàng, uyên bác tinh thông võ học chỉ qua nghiên cứu sách vở, dù chân yếu tay mềm, không biết chút võ công. Trong tác phẩm kiếm hiệp Thiên long bát bộ (Lục mạch thần kiếm) của Kim Dung, Vương phu nhơn vốn là tình nhân bị phụ bạc của Đoàn Chính Thuần, một tay sát gái với hàng loạt mỹ nhân bậc nhất thiên hạ. Vương Chính Thuần là dòng dõi đế vương (Trấn Nam vương), em của hoàng đế nước Đại Lý Hoàng Chính Minh. Mà nước Đại Lý thì lại là xứ sở của hoa Trà (Mạn đà la), nên có lẽ do vậy, mà người đẹp họ Vương rất say mê hoa trà. Hoặc vì một lý do nào khác nữa thì không ai biết.

Hoa trà, loài hoa Vương phu nhơn rất yêu quý


Chỉ biết là sau khi bị phụ tình, lại có một cô con gái với Đoàn Chính Thuần (chính là Vương Ngữ Yên), bà ta ẩn về vùng Tô Châu, đến Thái hồ tìm một hòn đảo vắng, lập ra một trang trại chỉ trồng toàn hoa Trà, đặt tên là Mạn đà sơn trang. Hiểu theo nghĩa đen là một Trang trại hoa Trà vậy.



Vương phu nhơn bị tình lang phụ bạc nên rất căm ghét đàn ông phụ tình

Để có được Mạn đà sơn trang, Vương phu nhơn bỏ ra không biết bao là công sức, tiền bạc, vẫn thường đi khắp thiên hạ sưu tầm, mua cả ngàn cây hoa trà về trồng, chăm sóc nâng niu. Ở Mạn đà sơn trang, trà hoa mọc ngút ngàn như rừng. Chưa bao giờ biết chán, Vương phu nhơn vẫn không ngại khó, tốn kém, tiếp tục tìm thêm thật nhiều giống hoa trà chủng loại khác nhau. Có thể nói Vương phu nhân đã say mê hoa trà đến tuyệt đỉnh, mê mẩn. Một thú vui lạ lùng nhưng tao nhã.

(Ghi chú: mà có lẽ sự thật chính tác giả Kim Dung mới là người say mê loài hoa này. Rải rác trong các tác phẩm của mình, KIm Dung không tiếc lời tụng ca loài hoa thanh cao, cao quý này. Không ít lần ông ví đoá hoa trà như một người con gái đẹp nhất, tinh khôi. Tỷ như trong Anh hùng xạ điêu, ở phần cuối truyện, Kim Dung mô tả Hoàng Dung dung mạo "như một đoá bạch trà", cho thấy Kim Dung yêu hoa trà ra sao).

Vì bị Đoàn Chính Thuần phụ bạc, nên Vương phu nhơn, dù tự trong đáy lòng vẫn không bao giờ nguôi nhớ về Đoàn Chính Thuần, đã vô cùng căm hận giới đàn ông nói chung. Bà ta rất ghét và không còn niềm tin vào sự chung thuỷ của đàn ông. Và đối xử với đàn ông vô cùng tàn bạo độc ác. Có lẽ âu cũng là cách để "trả thù" cho mối uất hận vì bị phụ bạc vậy.

Hàng ngày, ngoài hoa trà, bà ta tìm lùng những gã đàn ông năm thê bảy thiếp, chơi bời trác táng bắt cóc dẫn về Mạn Đà sơn trang để xử tội thiếu chung thuỷ. Mỗi khi bắt được "phạm nhân" đem về, y rằng Vương phu nhơn chửi rủa cay độc, ép làm những việc kỳ quái như buộc phải về ... giết vợ! Ai không nghe thì giết, bằng cách chặt chân, tay, đem làm phân bón chôn dưới gốc hoa trà. Tuy không rõ là bao nhiêu, nhưng chắc chắn khá nhiều gã đàn ông bạc bẽo đã bị Vương phu nhơn hoá kiếp cho làm phân bón ở Mạn đà sơn trang.

Lại vì rất ghét đàn ông, nên Vương phu nhơn ban hành một thứ luật kỳ lạ là cấm tuyệt đàn ông không được bén mảng, đặt chân lên đảo Mạn đà. Ai mà lỡ không biết, vô tình đặt chân tới đây sẽ phải bị chặt hai chân để lại làm phân bón trà!

Đặc biệt đối với đàn ông là người nước Đại Lý hả, mà lại mang họ Đoàn hả, (chính là quê hương và họ của "gã" người yêu phụ bạc Đoàn Chính Thuần), thì lại càng cần nghiêm khắc hơn. Chỉ có giết!

Điếc không sợ súng

Những tưởng là chủ nhơn của Mạn đà sơn trang như vậy, Vương phu nhơn ắt phải rất rành rẽ về loài hoa trà, cây trà. Từ cách trồng trỉa, chăm sóc, cho đến đặc tính của từng loài, phân biệt được đâu là giống quý, tên của từng loại ...vv. Nhưng té ra hoàn toàn ngược lại. Vương phu nhơn hầu như không có chút kiến thức nào về loài hoa, cây này. Mà cũng chưa có ai từng hướng dẫn hay giải thích cho nàng.

Chính vì vậy, mặc dù thỉnh thoảng kiếm ra và đem về được vài chủng loại hoa trà thuộc giống trân quý, nhưng cũng không hề biết là quý. Không phân biệt được thượng vàng hạ cám. Lại do không biết cách chăm sóc và đặc tính của cây, nên hoa quý đem về trồng rồi cũng đều từ từ héo mà chết. Cũng vì vậy mà bà ta buồn bực phiền lòng không ít.

Thế rồi run rủi thế nào, bữa nọ anh chàng ngoan đạo lãng tử Đoàn Dự, chính là con trai của Đoàn Chính Thuần, lạc lối đưa chân đến Mạn đà sơn trang. Khi chàng ta vô tình dõng dạc tuyên bố mình là người nước Đại Lý, lại họ Đoàn, tưởng chừng đã cầm chắc cái chết trong tay Vương phu nhơn.

Nhưng trong cái xui luôn có cái hên. May nhờ kiến thức uyên thâm về hoa trà (vì từ nhỏ sống trong cung, cùng được chăm sóc, thưởng lãm hoa trà) nên không những thoát chết, mà Đoàn Dự còn lật ngược thế cờ, dồn Vương phu nhơn vào thế phải mở tiệc khoản đãi mình, chỉ để được nghe Đoàn Dự bình phẩm về cái hay, cái tuyệt của hoa trà. (Mà qua đó, mọi người như chúng ta cũng có cơ hội tăng thêm những kiến thức vô cùng thú vị, hay ho về loài hoa này. Hi hi).

Thế mới biết người đẹp Vương phu nhơn, cũng như rất nhiều người đẹp khác trên chốn võ lâm giang hồ của Kim Dung, có những sở thú rất lạ lùng, tức cười. Theo kiểu "điếc không sợ súng" vậy.

Nhưng suy cho cùng, trên cõi đời này nhiều khi thà "điếc không sợ súng", mà lại được sung sướng, hạnh phúc hơn là kẻ không điếc vậy. Giả tỷ không gặp Đoàn Dự, rất có thể Vương phu nhơn vẫn lầm tưởng Mạn đà sơn trang của mình là đệ nhất thiên hạ võ lâm, vẫn sung sướng hưởng cái thú ngắm hoa. Có khi lại còn nghĩ rằng gã người tình phụ bạc Đoàn Chính Thuần hẳn sẽ thèm khát, ganh tỵ nếu biết nàng có Mạn đà trang. Còn hơn là từ khi biết được "sự thật đau lòng" do Đoàn Dự chỉ ra, Vương phu nhơn có lẽ sẽ mất ngủ ít nhiều, nhìn hoa thấy không còn đẹp, còn quý như trước nữa rồi.

Lại nói thêm về tính "điếc không sợ súng". Bây giờ người đời hay gọi là tính "nổ"! Không ít vị đúng là dạng "ếch ngồi đáy giếng", tối ngày chỉ ngồi một chỗ dưới hố sâu, nhìn lên thấy một khoảng trời nho nhỏ bằng cái vung. Mà cứ nghĩ mình đã hiểu rõ, biết rành trời đất này rộng lớn cỡ nào vậy. Nói thật nếu "nổ" cho vui với thiên hạ, thì cũng có thể cho là được đi. Nhưng nếu đem cái tầm "ếch ngồi đáy giếng" ấy, mà làm quan, đi "dạy dỗ" thiên hạ, thì thật là cái hoạ vậy.

Nhưng chốt lại, kiến thức về hoa Trà có thực sự cứu mạng được cho Đoàn Dự hay không? Mời quý vị xem phần trích chương dưới đây trong tác phẩm THIÊN LONG BÁT BỘ sẽ rõ. Thật hấp dẫn và hay ho đó.



Vương Ngữ Yên, con gái của Vương phu nhơn và Đoàn Chính Thuần là một cô gái tuyệt sắc, nết na, thông minh dĩnh ngộ. Về sau nàng yêu Đoàn Dự - chính là anh cùng cha khác mẹ!

.....


Đoàn Chính Thuần - tuyệt đại cao thủ về tán gái!

Đoàn Chính Thuần thường được gọi là Đoàn Vương gia, là Trấn Nam Vương của nước Đại Lý, em trai của Hoàng đế Đoàn Chính Minh. Đây là nhân vật khá nổi bật trong thiểu thuyết Thiên long bát bộ.

Đoàn Chính Thuần có những phẩm chất của một bậc đế vương hoàn hảo: đẹp trai, võ nghệ cao cường (môn ‘Nhất dương chỉ’), được các anh hùng thiên hạ võ lâm kính trọng. Đặc biệt ở con người này là phong cách hào hoa phong nhã, phóng khoáng và tán gái siêu đẳng! Được mệnh danh là người ‘yêu mỹ nhân hơn giang san’, do thích tiêu dao, ông thường đi du sơn ngoạn thủy, đi đến đâu gặp mỹ nhân là ông yêu đến đó, yêu thiệt tình, yêu mê say, yêu lãng mạn và yêu đến… chết, và ông đi đến đâu là mỹ nhân cũng… đỗ gục đến đó.

Trong Thiên Long bát bộ, chuyện tình của Đoàn Chính Thuần rất lãng mạn, những không kém phần phức tạp rắc rối. Ngoài người vợ chính thức là Thư Bạch Phượng (hay Đao Bạch Phượng), ông còn có các cuộc tình vụng trộm với 5 nàng ‘sắc nước hương trời’ nữa là Vương A La (hay Vương Lan Hoa), Cam Bảo Bảo (Chung phu nhân), Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, và Khang Mẫn (Mã phu nhân).

Vì "bận việc nước", trừ Thư Bạch Phượng, Đoàn Chính Thuần thường chỉ yêu và gần gũi với mỗi mỹ nhân khoảng… 3 tháng rồi biến! Ông đã để lại các ‘dấu ấn’ cho các mỹ nhân của mình, gồm: Vương Ngữ Yên (con của Vương phu nhân), Chung Linh (con của Cam Bảo Bảo), Mộc Uyển Thanh (con của Tần Hồng Miên) và A Châu và A Tử (con của Nguyễn Tinh Trúc).

Mà các mỹ nhân này cũng có tính cách rất phức tạp và khác nhau, mỗi nàng đều đòi hỏi vị vương gia đó phải là của riêng mình, luôn luôn đố kỵ và ghen tuông lẫn nhau, họ lại chịu hậu quả của việc sinh con đẻ cái (không có cha) và bị sống lâu dài trong cảm giác ‘bị ruồng bỏ’ nên ôm hận và thậm chí trở nên tàn ác...

Trong số 6 mỹ nhân này, có hai nàng nổi bật hơn cả. 


Người đầu tiên là Thư Bạch Phượng. Nàng có tính tình ôn nhu, điềm tĩnh, vô cùng xinh đẹp: mảnh mai, da trắng, tóc dài, thường mặc xiêm y trắng trông giống như ‘Quan Âm áo trắng’ hay ‘Quan Âm tóc dài’. Đoàn Chính Thuần gặp và yêu nàng đầu tiên, rồi nàng sinh ra Đoàn Dự. Sau này vì Đoàn Chính Thuần quá đa tình, yêu hết người này đến người khác, nên nàng căm giận bỏ đi tu, không nhìn mặt ông.

Tiếp là Vương phu nhân, đã có thời gian hưởng thú yêu đương với Đoàn Chính Thuần được… ba tháng. Lúc đó vì biết ông rất thích trà, nên nàng đã cho xây dựng một khu trồng trà lớn gọi là Mạn đà sơn trang ở Cô Tô. Ông ra đi, bà sinh ra Vương Ngữ Yên, rồi sau đó vì hận tình, bà nẩy sinh lòng căm thù mù quáng, sẵn sàng giết bất cứ ai mang họ Đoàn và bất cứ ai có 2 vợ!

.....

* Trích tác phẩm Thiên long bát bộ:

Đoạn dưới đây nói về lúc Vương phu nhơn vừa đi xa về tới Mạn đà sơn trang, đem theo một gã "phụ bạc" về để  "xử" thì gặp Đoàn Dự cũng vừa rời đảo Mạn đà. Những nhân vật còn lại đều là thị nữ, kẻ hầu.

Hồi 30: Chơi Hoa Ðã Dễ Mấy Người Biết Hoa

Vương phu nhân nói:

- Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi sẽ móc mắt và cắt lưỡi gã đi.

Một ả thị nữ cao lớn, nước da ngăm ngă m khom lưng đáp:

- Xin vâng!

Ðoàn Dự lo thầm: "họ làm thế này thì giết mình đi còn hơn". Ðằng này họ chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho, cái đó mới thực khổ cho mình". Ðến bây giờ chàng quả thấy trong lòng sợ hãi. chàng quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích một lần nữa thì thấy hai mặt xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.

Phu nhân lên bờ rồi, hai tên thị nữ áo xanh ở thuyền ra sau rốt, trong tay đều cầm đầu dây lôi một chàng thanh niên mi thanh, mục tú, có vẻ là con nhà giàu sang và một ngườ i nữa, ngoại hiệu là Nộ Giang Vương Tần Nguyên Tôn. Lúc Tần đến vây đá nh Mộc Uyển Thanh thì oai phong là thế mà bây giờ bị trói chặt, lão cúi gầm mặt xuống chẳng khác gì cái xác không hồn hay như cá nằm trên thớ t tuỳ người muốn băm vằm mổ xẻ gì thì làm.

Ðoàn Dự rất lấ y làm kỳ tự hỏi: "ông này ở Vân Nam sao cũng bị Vương phu nhân bắt về đây?".

Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Tần Nguyên Tôn:

- Rõ ràng mi là người nước Ðại Lý, làm sao không chịu nhận đi?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Tôi ở Vân Nam, quê quán tôi không thuộc về nước Ðại Lý.

Vương phu nhân lạ i hỏi:

- Nhà ngươi cách nước Ðại Lý bao xa?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Hơn bốn trăm dặm.

Vương phu nhân nói:

- Chưa đầy năm trăm dặm, thế cũng là người Ðại Lý rồi. Ðem y chôn sống dưới gốc Mạn đà la để bón cho cây.

Tần Nguyên Tôn kêu lên:

- Nhưng tôi phạm tội gì mới được chứ? Nếu không nói rõ thì chết cũng không nhắm mắt.

Vương phu nhân cười lạt đáp:

- Cứ là người Ðại Lý hoặc người họ Ðoàn mà gặp ta là ta chôn sống, chỉ có thế thôi. Tuy ngươi không phải ở Ðại Lý, nhưng là người lân cận nước Ðại Lý thì cũng thi hành như nhau.

Ðoàn Dự lẩm bẩm: à ra mụ này nói có vẻ châm chọc mình. Ta chẳng cần chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi. Nghĩ vậy chàng lớn tiếng nói:

- Ta là người nước Ðại Lý, lại chính trong họ Ðoàn. Ngươi muốn chôn sống ta thì hạ thủ ngay đi!

Vương phu nhân lạnh lùng nói:

- Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Ðoàn Dự chứ gì? được lắm! Người họ Ðoàn nước Ðại Lý đâu có được chết dễ dàng thế?

Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ kéo Tần Nguyên Tôn đi. Nhưng Tần vừa bị điểm huyệt vừa bị trọng thương, không sao kháng cự được, lão kêu to lên:

- Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy? Mấy trăm vạn nhân dân nước Ðại Lý liệu có giết hết được không?

Lão kêu gào thế nào cũng mặc, thị nữ lôi tuột lão đi vào rừng trà mỗi lúc một xa,tiếng la cũng nhỏ dần. Phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn chàng thanh niên mày thanh, mắt sáng hỏi:

- Mi có điều chi muốn nói nữa chăng?

Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói:

- Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tôi là con. Xin phu nhân tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng theo.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết? Ngươi muốn sống cũng chẳng khó gì. Chỉ có điều hôm nay mi phải về nhà giết vợ con đi, rồi sáng mai đem đủ sáu lễ cưới Miêu thị là người đã có tư tình với mi. Mi có bằng lòng không?

Chàng thanh niên đáp:

- Về việc đang tay... chém giết vợ con, tôi không dám làm. Còn việc cho mối lái và cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tôi nhất định không chịu.

Không phải là tôi...

Chàng chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh:

- Ðem gã chôn sống đi!

Tên thị nữ dắt chàng lúc nãy chỉ "vâng" một tiếng rồi kéo chàng đi.

Chàng thanh niên sợ run bắn người vội nói:

- Tôi... tôi xin tuân mệnh.

Vương phu nhân nói:

- Tiểu Thuý! Mi áp giải gã về thành Cô Tô và chính mắt mi phải nhìn thấy rõ gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục mệnh.

Tiểu Thuý vâng lời, lôi chàng bỏ xuống chiếc thuyền nhỏ Ðoàn Dự đang ngồi.

Chàng thanh niên miệng vẫn năn nỉ:

- Xin phu nhân mở lượng từ bi, phu nhân không có thù oán gì với vợ tôi, lại không quen biết Miêu cô nương. Tôi cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà tất phu nhân bắt tôi giết vợ để lấy người khác làm chi? Từ nay tôi không dám làm điều gì để đắc tội với phu nhân.

Vương phu nhân nói:

- Mi đã có vợ con, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để chàng màng với các cô gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra ta đều xử theo đường lối này. Vả mi có phải mới phạm một lần này mà thôi đâu? Còn oán hận gì nữa? Tiểu Thuý vụ này là vụ thứ mấy rồi hả?

Tiểu Thuý đáp:

- Những chỗ tiểu tỳ quen biết như những vụ xảy ra ở Ðan Dương, Vô Tích, Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ nào nữa thì phu nhân hỏi Tiểu Lan, Tiểu Thi sẽ rõ.

Chàng công tử nghe mà bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than.

Tiểu Thuý buông mái chèo, bơi thuyền đi luôn.

Ðoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ khốc liệt, không đếm xỉa đến lý lẽ thì miệng há hốc ra, mắt mở trừng trừng như người sắp nổi cơn điên. Trong lòng chàng vẫn quanh quẩn với ý nghĩ: "sao lại có con người vô lý đến như thế?".

Bất giác chàng buột miệng la lên:

- Có lý nào thế được? Có lý nào thế được?

Phu nhân "hừ" một tiếng rồi nói tiếp:

- Mi còn hỏi việc thiên hạ có lý nào thế được ư? Này này ta bảo còn nhiều việc hơn thế nữa là khác.

Ðoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước chàng vào thạch động gần sông Thương Lan, thấy pho tượng thần tiên mà chàng xiết bao ngưỡng mộ, bây giờ chàng thấy Vương phu nhân tướng mạo giống pho ngọc tượng như đúc mà hành vi chẳng khác gì yêu ma quỷ quái.

Ðoàn Dự đang cúi đầu lầm lỳ chán nản thì bốn con nữ tỳ chui vào thuyền bê ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những thứ sơn trà rất hiếm. Khắp thiên hạ đều ca tụng sơn trà Ðại Lý là quý hơn hết. Trong phủ Trấn Nam Vương không biết bao nhiêu là sơn trà có danh tiếng thì bốn chậu trà này cũng đứng vào hàng nhất trong phủ. Từ thuở nhỏ Ðoàn Dự xem trà đã quen. Lúc rồi chàng thường ngồi nghe thợ làm trà bàn tán phê bình về tính chất cùng ưu liệt điểm của từng thứ trà. Chàng không học tập nghề trồng trà nhưng trong lòng cũng thuộc như cháo, khác nào con nhà nông phân biệt lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi về các loại cá tôm? Lúc trước chàng đã đi lại mấy dặm để ngắm xem rừng trà mà chưa thấy có một gốc trà nào vào hàng giai phẩm, trong lòng chàng đã nghĩ đến cái tên "mạn đà sơn trang" đặt cho khu trại này thật uổng.

Bỗng nghe Vương phu nhân gọi:

- Tiểu Trà! Bốn chậu trà "mãn nguyệt" này khó kiếm lắm đấy! Mi phải trông nom chăm chút nghe!

ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp:

- Vâng!

Ðoàn Dự nghe giọng hách dịch kiêu điệu thì hề hề cười lạt. Vương phu nhân không thèm nói gì đến chàng lại dặn tiếp:

- Ði trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng và gia công bón vào.

Tiểu Trà lại "vâng" một tiếng.

Bây giờ thì Ðoàn Dự lớn tiếng cười ha hả. Vương phu nhân nghe tiếng cười có vẻ hỗn xược hỏi:

- Mi cười gì?

Ðoàn Dự đáp:

- Ta buồn cười cho mi đã chẳng biết tý gì về sơn trà lại ưa trồng trà. Những thứ trà quý thế kia lọt vào tay ngươi thật là uổng, chẳng khác gì chim cú đậu cành mai.

Vương phu nhân nổi giận nói:

- Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng?

Rồi dường như phu nhân sực nhớ ra điều gì lẩm bẩm: ừ mà gã này là con cháu họ Ðoàn nước Ðại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên. Nghĩ vậy thì nghĩ nhưng phu nhân vẫn ra vẻ kiêu kỳ:

- Mi không nghe nói bản trang đây xưng danh "mạn đà sơn trang" hay sao? Và không thấy khắp sơn dã trà mạn đà chỗ nào cũng tốt như rừng đấy ư?

Ðoàn Dự cười lạt đáp bằng giọng khinh khỉnh:

- Tuồng chi rừng mạn đà của ngươi chẳng khác chi giống người vai u thịt bắp, vứt đâu mà chẳng to chẳng lớn? Ta nói là nói bốn chậu chà này này, nếu ngươi trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Ðoàn.

Vương phu nhân vốn rất ưa hoa trà, không kể tốn phí, đi tìm khắp nơi để mua giống quý nhưng cứ đem về Mạn đà sơn trang trồng thì các thứ trà hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết. Phu nhân thường buồn phiền về những vụ này. Giờ thấy Ðoàn Dự nói vậy, không giận mà lại mừng thầm,tiến lại hai bước hỏi:

- Bốn chậu trà này có gì đặc biệt? Muốn trồng cho tươi tốt phải làm thế nào?

Ðoàn Dự nói:

- Nếu ngươi muốn thỉnh giáo thì phải có đủ lễ nghi, còn người muốn làm oai làm phước thì chặt chân ta trước rồi hỏi cũng chưa muộn mà.

Vương phu nhân tức mình nói:

- Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì? Tiểu Thi đâu! Mi đem chặt chân trái gã đi nghe!

Ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi "vâng" một tiếng rồi chống kiếm bước ra.

A Bích vội la lên:

- Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Ðoàn quân. Cậu là người rất quật cường,thà chết chứ không chịu nói đâu.

Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm dọa chàng mà thôi, liền giơ tay trái lên,Tiểu Thi vội dừng bước.

Ðoàn Dự cười nói:

- Sao không chặt hai chân ta để chôn bên gốc bốn khóm bạch trà này để bón cho tốt? Bốn khóm trà này quý vô cùng, hoa nó lớn bằng miệng bát chậu. Ha ha thật là thứ trà rất đẹp, rất quý.

Trong lòng Vương phu nhân chỉ mong có thứ trà quý nhưng nghe giọng lưỡi chàng toàn là bướng bỉnh, phu nhân không biết nói thế nào, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:

- Mi chỉ toàn nói ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở chỗ nào? Mi nói cho ta nghe thử! Nếu đúng ta sẽ theo lễ đối đãi với mi cũng chưa muộn.

Ðoàn Dự đáp:

- Vương phu nhân! Ngươi bảo bốn chậu bạch trà này tên là "mãn nguyệt" là láo toét. Một thứ tên gọi "Hồng trang tố lý", một thứ là "trảo phá mỹ nhân kiểm"...

Phu nhân lấy làm lạ ngắt lời:

- "Trảo phá mỹ nhân kiểm"? tên trà gì mà kỳ thế? Vậy chậu trà nào có tên thế?

Ðoàn Dự nói:

- Ngươi muốn thỉnh giáo ta thì phải theo đúng lễ ta mới chỉ bảo cho.

Vương phu nhân không biết làm thế nào nhưng thấy mình vô tình lấy được mấy khóm trà có những tên đặc biệt trong lòng hớn hở vui mừng liền mỉm cười nói:

- Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp sửa tiệc tại lầu Vân Cẩm để ta khoản đãi Ðoàn tiên sinh nghe!

Tiểu Thi vâng dạ đi ngay. A Châu, A Bích chỉ nhìn nhau. Hai nàng thấy Ðoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi vào hạng thượng tân thì khác nào như mơ mộng.

Phu nhân quay lại dặn ả thị nữ cầm ba cái đầu lâu:

- Mi đem ba cái thủ cấp này chôn xuống bên khóm hoa hồng trước lâu Hồng Hà.

Thị nữ vâng lệnh đi ngay, Vương phu nhân quay lại nói với Ðoàn Dự:

- Nào xin mời Ðoàn công tử lên đây!

Ðoàn Dự đáp:

- Vãn sinh mạo muội! Xin hiền chủ nhân thứ lỗi.

Vương phu nhân nói:

- Ðại hiền giá lâm khác nào rồng đến nhà tôm?

Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn lúc nãy, tính mạng Ðoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc. A Châu, A Bích theo sau. Hai người biết tính Vương phu nhân hốt hỷ hốt nộ, nói cười đấy rồi trở mặt ngay đấy nên trong lòng vẫn phập phồng lo sợ.

Vương phu nhân dẫn Ðoàn Dự đi qua một chiếc cầu đá, theo con đường chật hẹp đến trước một toà lầu nhỏ. Ðoàn Dự ngẩng đầu lên trông thấy dưới mái hiên có treo tấm biển đề ba chữ vàng: "Vân Cẩm lâu". Bốn mặt toà lầu này trồng toàn hoa trà. Những bông trà ở đây đem so với trà bên Ðại Lý chỉ đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Ðình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.

Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý hỏi Ðoàn Dự:

- Ðoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ còn thua bên này.

Ðoàn Dự gật đầu đáp:

- Vâng! bên Ðại Lý quả không trồng những thứ trà này.

Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi:

- Vậy ư?

Ðoàn Dự đáp:

- Vì bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng rất sành về các loại trà. Họ cho trồng những thứ trà tạp nham này làm cảnh chơi sẽ làm mất cả phẩm giá con người.

Vương phu nhân tức thời biến sắc hỏi:

- Công tử nói sao? Những trà của ta đây là những thứ không ra gì? Thế thì công tử khinh người quá!

Ðoàn Dự đáp:

- Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của người.

Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu nói tiếp:

- Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm! Chà cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp. Chàng tấm tắc khen cái giàn hoa đẹp còn chính cây hoa lại không đếm xỉa gì đến, có khác gì người bình phẩm chữ viết chỉ khen mực đen bóng mà không đả động đến nét chữ. Khóm hoa trà này có bông hồng, bông trắng, bông tía, bông vàng rất là sặc sỡ, trước nay Vương phu nhân vẫn cho là quý báu lắm giờ xem Ðoàn Dự có ý mỉa mai thì tỏ vẻ không bằng lòng.

Ðoàn Dự hỏi:

- Thưa phu nhân! Miệt Giang Nam gọi tên thứ hoa này là gì?

Vương phu nhân đáp:

- Ở đây không có tên riêng, chỉ gọi là ngũ sắc trà hoa.

Ðoàn Dự nói:

- Bên Ðại Lý chúng tôi gọi nó là "lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân bĩu môi nói:

- Tên gì mà khó nghe thế? Chẳng qua là công tử muốn đặt ra vậy thôi. Khóm hoa này đủ mầu mỹ lệ đường hoàng, có vẻ gì gọi là cậu tú hỏng thi đâu?

Ðoàn Dự nói:

- Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có bao nhiêu kiểu hoa khác nhau?

Vương phu nhân đáp:

- Ta đã đếm rồi! ít ra cũng có đến 15, 16 thứ.

Ðoàn Dự nói:

- Cả thảy có 17 thứ mới đúng. Bên Ðại Lý tôi có thứ trà kêu bằng "thập bát học sĩ". Ðó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có 18 bông mà mầu sắc không bông nào giống bông nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi bông có một vẻ đẹp riêng. Cả 18 bông nở cùng một lúc,tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã được xem chưa?

Vương phu nhân lắc đầu đáp:

- Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ư? Tôi chưa từng nghe thấy ai nói đến.

Ðoàn Dự lại nói tiếp:

- Sau hạng "thập bát học sĩ", còn có những thứ kém đi từng bậc một, tỷ như "bát tiên quý hải", một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, "thất tiên nữ" có bảy bông,"phong trần tam hiệp" có ba bông, "nhị kiều" có hai bông một trắng một hồng. Tất cả các bông hoa phải thuần một sắc, nếu hoa hồng có pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.

Vương phu nhân vừa nghe vừa gật đầu. Ðoàn Dự lại nói tiếp:

- Riêng về thứ "phong trần tam hiệp" lại chia ra làm hai: hạng chánh và hạng phó. Trong ba bông thì bông tía phải lớn hơn hết tượng trưng cho Cầu nhiêm Khánh, bông trắng thứ nhì tượng trưng cho Lý Tĩnh, bông hồng đẹp và nhỏ nhất

tượng trưng cho Hồng phất Nữ. Nếu bông hồng lớn hơn hai bông kia là hạng phó,như thế là giá trị kém đi nhiều.

Vương phu nhân ngồi nghe ra chiều thú vị, than rằng:

- Ngay hạng phó tôi cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến hạng chánh.

Ðoàn Dự lại trỏ thứ trà bông ngũ sắc phê bình:

- Luận về tư cách loại này so với "thập bát học sĩ" thì còn thiếu một bông, ngoài ra các mầu sắc lại còn bác tạp, không được thuần nhất, bông to bông nhỏ, hay nở sớm, nở muộn không đều phỏng có khác chi bì phấn với vôi? tỷ như sĩ tử văn bài kém cả phân điểm, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên "Lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân nghe có lý thích quá, bật cười nói:

- Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên có vẻ mỉa mai khinh bạc.

Vương phu nhân nghe tới đây biết Ðoàn Dự rất sành sỏi về sơn trà đem lòng tín phục. Phu nhân dẫn chàng lên lầu "cẩm vân", chẳng mấy chốc đã thấy gia nhân bày tiệc rượu. Các món ăn của A Bích mời chàng thì lấy sự đơn giản tinh khiết,

khéo tay khéo chân làm sở trường còn tiệc của Vương phu nhân lại chú trọng về những món ăn trân tu làm sang. Nhưng Ðoàn Dự đã sinh trưởng ở nơi Ðế Vương đài các nên thứ gì chàng cũng coi là thường, chàng có vẻ thích những món ăn của A Bích hơn.

A Châu, A Bích được các tỳ nữ bồi tiếp và ăn uống riêng biệt ở chỗ khác. Vương phu nhân đối với Ðoàn Dự rất mực cung kính. Bà ngồi chỗ dưới để bồi tiếp chàng.

Rượu đã ba tuần Vương phu nhân hỏi:

- Vừa rồi công tử cho nghe những lời bình phẩm xác đáng về các thứ trà tôi rất đồng ý, còn bốn chậu trà tôi mới lấy về đây thì những thợ trồng hoa ở đất Cô Tô này kêu bằng trà "mãn nguyệt" mà công tử lại bảo một chậu là "Hồng trang tố lý",một chậu "mỹ nhân trảo phá kiếm", vậy có những điểm nào để phân biệt? Xin công tử nói rõ cho biết!

Ðoàn Dự nói:

- Chậu hoa trắng mà lớn có vân đen nho nhỏ mới kêu là "mãn nguyệt" những vân đen đó tượng trưng các cành quế ở cung trăng. Chậu hoa cánh trắng mà có vân hồng gọi là "hồng trang tố lý". Cánh trắng mà có điểm một tia đỏ nhỏ như sợi tơ là "mỹ nhân trảo phá kiếm". Thứ giống như "mỹ nhân trảo phá kiếm" nhưng cánh có nhiều tia hồng thì gọi là "ỷ lan kiều". Phu nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên má lỡ tay cào toạc ra một dây máu thì chả hại gì nhưng khắp mặt sây xát, tỏ ra đã bao phen cùng người xô xát thì còn đâu là vẻ mỹ nhân?

Vương phu nhân đang chăm chú nghe, thốt nhiên sa sầm nét mặt quát lên:

- Quân này to gan thật! Mi dám mạt sát ta ư?

Ðoàn Dự cả kinh:

- Khi nào tôi dám thế? Tôi có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu?

Vương phu nhân hỏi:

- Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?

Ðoàn Dự giật mình đáp:

- Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì đàn bà con gái giỏi võ mà vẫn kiều diễm đoan trang?

Không ngờ câu nói này đã làm cho Vương phu nhân chối tai hơn. Bà hỏi vặn:

- Ta có đoan trang hay không?

Ðoàn Dự đáp:

- Ðoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Ðại khái những việc như bắt người ta giết vợ để đi lấy vợ khác người đoan trang không làm.

Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau chàng không kiêng nể gì nữa. Vương phu nhân khẽ đập tay ba cái, ba ả thị nữ vội chạy lên lầu, bỏ thõng tay đứng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:

- Bọn mi dẫn tên này đi tưới hoa.

Bọn thị nữ vâng lời. Phu nhân quay lại bảo Ðoàn Dự:

- Ngươi đã ở nước Ðại Lý, lại là người họ Ðoàn đáng chết lắm nhưng hiểu biết tính chất các loại trà vậy ta hãy tạm để tội chết lại, phạt ngươi phải trông nom bón tưới những khóm trà ở xung quanh trang, nhất là bốn chậu trà mới lấy về, lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết trước nếu trong bốn khóm trà này mà ngươi để chết một khóm sẽ bị chặt một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay,chết hết bốn khóm thì chân tay sẽ bị chặt hết đó.

Ðoàn Dự cười nói:

- Còn trường hợp bốn khóm trà sống cả thì sao?

Vương phu nhân đáp:

- Nếu bốn khóm trồng được tươi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm như "thập bát học sĩ", "bát tiên quá hải", "Thất tiên nữ", "nhị kiều" mỗi thứ mấy cây,không kiếm được cho ta sẽ bị móc mắt.

Ðoàn Dự nói:

- Thế thì mụ giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai móc mắt, ta chịu sao nổi?

Vương phu nhân quát mắng:

- Tên này giỏi thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ nó đi!

Ba ả thị nữ chạy lại, hai ả túm đằng trước, còn một ả phía sau đẩy đi. Ba ả này đều có võ, Ðoàn Dự không thể kháng cự lại được đành để bọn thị nữ kéo xuống lầu, đưa đến một chỗ trong vườn hoa. Một ả đưa cho chàng cái xuổng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới và bảo chàng:

- Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Thế là đại phước lắm đó. Những chàng trai đã đặt chân lên Mạn đà sơn trang chưa có ai sống mà trở về đấy nhé.

Một ả nữa nói:

- Ngươi chỉ biết việc ở đây trồng tỉa sơn trà, đừng len lỏi vào các nơi cấm địa mà nguy đó! Nếu không nghe lời ta tức là tự đi tìm lấy cái chết không ai cứu được đâu.

Ba ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Ðoàn Dự đứng thừ người ra, chàng lâm vào tình trạng khóc dở mếu dở. Tại nước Ðại Lý chàng ở vào địa vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam Vương, một ngày kia lên kế vị Bảo Ðịnh Ðế, thì tự nhiên chàng lên bậc Hoàng thái tử, có ngờ đâu bị người bắt đem xuống Giang Nam định đốt, định giết, toan chặt chân tay, móc mắt. Rồi bây giờ bị người bắt ép làm kẻ trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính chàng bình dị vui vẻ, lúc ở nhà tại hoàng cung cũng như ở Vương phủ thường nhật chàng vẫn xem thợ sửa hoa cắt cỏ, xới đất bón cây rồi cùng bọn thợ cười cười nói nói. Chàng đang ở địa vị công tử vương tôn, giờ phải xuống làm nghề hạ tiện nhưng may chàng vốn tính linh lợi vui tươi nên dù gặp nghịch cảnh đầy đoạ chàng có âu sầu chăng nữa cũng chỉ được một lúc rồi lại cao hứng như thường. Chàng lại khai thác nguồn hứng thú ở ngay cái việc hiện tại đang đẩy vô mình. Chàng lý luận: lúc ta vào thạch động đã hạ bái thần tiên tỷ nương nhận làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần tiên tỷ nương,bất quá phu nhân nhiều tuổi hơn mà thôi, thế thì ta thờ phu nhân làm sư phụ cũng được chứ sao? Sư phụ đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử là phải vì thầy xuất lực có chi quá đáng? huống chi trồng hoa là công việc thanh nhã của bọn văn nhân so với việc khai thương múa đao học võ thì trồng hoa còn cao thượng hơn nhiều. Thoát khỏi tay Cưu Ma Trí định đem mình đốt sống trước mộ Mộ Dung tiên sinh để được ra đây làm cái việc trồng hoa khoái lạc này là vinh hạnh lắm rồi. Chỉ đáng tiếc có một điều là các loại trà hoa kém cỏi này mà phải dùng đến vương tử nước Ðại Lý ra tay trồng tỉa kể cũng hơi phí. Lý luận hồi lâu lòng chàng khoan khoái, miệng bật lên khúc hát vang lừng, vác xuổng cất bước.

Chàng tự nhủ thầm: "Vương phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho đặng sống bốn bồn bạch trà này phải lắm! Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải được tay văn nhã như mình trồng mới thành thân".

Ðoàn Dự vừa đi vừa ngắm phong cảnh đột nhiên chàng cười ha hả nghĩ bụng: "Vương phu nhân kể ra cũng kỳ, chẳng hiểu mảy may gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn đà sơn trang, nghe ra có vẻ hay ho lắm. Phu nhân có biết đâu rằng trà ưa khí âm chứ không hợp với khí dương. Trồng trà vào nơi giải nắng thì chẳng chết cũng chột, khó lòng tươi tốt được, vun bón thế nào cũng vô ích. Biết bao nhiêu thứ trà quý để phu nhân làm hỏng hết. Ðáng tiếc, đáng tiếc!". Chàng tránh những lối nắng chang chang tìm vào những nơi rậm rạp âm u, đi quanh hết hòn núi nhỏ bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên tả toàn là trúc mọc xanh rì, bốn bề tịch mịch, mặt trời không chiếu vào đến nơi, đúng là khu âm trái núi. Vương phu nhân thấy nơi này đất cớm cho là không thể trồng hoa được nên tuyệt không có một gốc trà nào.

Ðoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: "chỗ này trồng trà tuyệt diệu". Ðoạn chàng rảo bước quay về chỗ cũ bưng hai chuyến, bốn chậu trà đến đó. Chàng khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè cho vỡ chậu sành rồi đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa làm qua công việc trồng tỉa nhưng đã được xem nhiều, cứ theo cách thức mà làm cho được chu đáo. Hồi lâu chàng trồng xong cả bốn khóm bạch trà ngay cạnh rặng trúc: đầu bên trái là khóm "Trảo phá mỹ nhân kiểm", đầu bên hữu hai khóm "hồng trang tố lý" và "mãn nguyệt", còn khóm "ỷ lan kiều" thì trồng chênh chếch mé sau khối đá lớn bên bờ suối cho hợp với câu:

E thẹn ôm đàn che nửa mặt
Ai kêu ai gọi cũng mần thinh

Ðoàn Dự rất đắc ý đã trồng khóm "ỷ lan kiều" vào nơi nửa kín nửa hở cho hợp cảnh và tăng thêm vẻ đẹp.

Người Trung Quốc từng đem hoa ví với mỹ nhân, việc trồng hoa cũng như việc trang điểm cho mỹ nhân. Ðoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức trồng cây cỏ cũng hơn người một bậc. Trồng xong bốn khóm hoa chàng xuống suối rửa sạch chân tay ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm "ỷ lan kiều" lấy làm khoái chí.

Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ ngang qua, một cô nói:

- Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại...

Ðoàn Dự thoáng nghe đã giật nảy mình vì chàng nhận ra vị nữ lang mặc áo trắng lúc trước.

Ðoàn Dự nín hơi, không dám ho he một tiếng, nghĩ bụng: "nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng. Ta chỉ cần nghe nàng nói mấy câu phỏng có khác gì được nghe giọng ca nhạc của tiên nương, cũng đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta phải cố giữ cho nàng không trông thấy mình mới được. Chàng chỉ ngấp nghe nhìn chênh chếch chứ không dám nhìn thẳng mặt. Chàng vừa nghiêng đầu nghẹo cổ nhìn trộm vừa sợ đụng chạm phát ra tiếng làm kinh động nữ lang.

.....

............



No comments:

Post a Comment